Theo báo cáo của Viện Dinh dưỡng quốc gia, thừa cân, béo phì đã trở thành vấn nạn toàn cầu. Hiện nay, ở nước ta, tốc độ gia tăng bệnh nhân mắc béo phì đang theo hình dựng đứng.
Theo PGS.TS Trương Tuyết Mai - Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia, trước năm 1970, tỷ lệ béo phì ở học sinh từ 5-19 tuổi chỉ khoảng 2%, thì nay là 16%. Như vậy, cứ cách 10 năm tăng gấp 2, 3 lần. Tại Việt Nam, sau 10 năm, tỷ lệ thừa cân béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi tăng 1,5 lần, từ 5,6% vào năm 2010 lên 7,4% vào năm 2020. Con số này ở trẻ từ 5-19 tuổi cũng tăng gấp đôi, từ 8,5% lên 19%. Đặc biệt, tại TPHCM, cứ 2 trẻ sẽ có 1 trẻ bị thừa cân, béo phì. Tương tự, tỷ lệ thừa cân, béo phì ở người lớn cũng tăng gần gấp đôi sau 10 năm, từ 12% lên 19,6%.
Một nghiên cứu mới đây của Viện Dinh dưỡng quốc gia phối hợp Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai tại nhiều trường mầm non cho thấy, có những trường ghi nhận tới 30% học sinh là trẻ béo phì. Đồng thời, tình trạng này cũng được ghi nhận tại các trường tiểu học.
PGS.TS Bùi Thị Nhung - Trưởng khoa Dinh dưỡng học đường và ngành nghề (Viện Dinh dưỡng quốc gia) cho biết, kết quả khảo sát mới đây của Viện đối với học sinh lớp 5 của một số trường tại quận, huyện Hà Nội năm 2023 rất đáng ngại. Cụ thể, Trường Tiểu học Dịch vọng B (quận Cầu Giấy) có 45,5% trẻ thừa cân, béo phì. Trường Tiểu học Lê Lợi (quận Hà Đông), tỷ lệ này là 49,5%, trong khi trường Tiểu học La Thành (quận Đống Đa) tới 55,7%... Ở các trường thuộc khu vực ngoại thành, trên 20% trẻ mắc tình trạng trên.
Theo GS.TS Trần Bình Giang - nguyên Giám đốc Bệnh viện Việt Đức, thừa cân, béo phì là căn bệnh thời hiện đại và ngày càng gia tăng với tốc độ báo động, là mối đe dọa làm giảm tuổi thọ và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, kéo theo hệ lụy về các bệnh lý khác như cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, suy tim, đái tháo đường, ung thư… Thừa cân, béo phì không chỉ làm giảm chất lượng cuộc sống mà còn tác động nhiều đến tâm lý, đặc biệt đối với phái nữ, khiến người bệnh dễ mặc cảm, tự ti trong giao tiếp.
Thừa cân và béo phì cũng có mối liên hệ mật thiết với nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, như bệnh mạch vành, tăng huyết áp, suy tim. Nhiều nghiên cứu cho thấy, 78% người bệnh nam giới và 60% người bệnh nữ giới cao huyết áp đều có cân nặng ở mức thừa cân hoặc béo phì. Chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng lên 5 đơn vị làm tăng nguy cơ bị cao huyết áp tăng lên 1,5 lần và vòng bụng tăng lên 10cm làm tăng nguy cơ cao huyết áp lên 1,25 lần. Đồng thời, người bệnh béo phì có nguy cơ thoái hóa khớp háng và phải phẫu thuật thay khớp tăng gấp 1,12 lần so với các người bệnh có thể trọng bình thường.
Không những thế, béo phì làm tăng tỷ lệ vô sinh ở nữ giới. Béo phì ảnh hưởng đến khả năng sinh sản ở phụ nữ là do thay đổi chức năng của trục dưới đồi – tuyến yên – buồng trứng… Một trong các hậu quả khác của béo phì là ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh. Họ bị phân biệt, kỳ thị về cân nặng dẫn đến tổn hại về thể chất và tâm lý. Bên cạnh đó, béo phì làm tăng nguy cơ các bệnh ung thư đại trực tràng, ung thư vú, ung thư thực quản và tăng nguy cơ tử vong hơn.
GS.TS Trần Bình Giang khuyến cáo, béo phì là một bệnh mãn tính, cần được điều trị sớm. Bệnh béo phì không chỉ gây ảnh hưởng đến sinh hoạt, thẩm mỹ, mà còn làm tăng nguy cơ tử vong hơn so với những bệnh nhân có cân nặng bình thường. Nguyên tắc để điều trị thừa cân, béo phì là tăng cường tiêu hao năng lượng và giảm nguồn thức ăn vào cơ thể.
Theo đó, cần tăng cường các thức ăn có lợi cho sức khỏe như rau xanh, hoa quả, giảm bớt thức ăn nhiều dầu mỡ như gà rán, các loại thức ăn nhanh, nước ngọt...
Bên cạnh đó, cần tích cực vận động cơ thể, tập thể dục thể thao. Bởi khi ít vận động, ngồi tại chỗ nhiều sẽ khiến tiêu hao năng lượng ít hơn năng lượng ăn vào. Năng lượng dư thừa quá nhiều và tích tụ lại trong cơ thể dưới dạng mỡ gây ra thừa cân béo phì.
Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có tới 87% người bệnh đái tháo đường bị thừa cân và béo phì. Những trẻ vị thành niên bị béo phì làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường khi trưởng thành. Một nghiên cứu cho thấy, những người bệnh tăng 8-10kg thì nguy cơ đái tháo đường tăng 2,7 lần.