Báo Đại Đoàn Kết Quốc hội

Giám sát điện tử để bảo vệ người cai nghiện

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Giám sát điện tử để bảo vệ người cai nghiện

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News
Giám sát điện tử để bảo vệ người cai nghiện
Bà Nguyễn Thị Việt Nga phát biểu (Ảnh: Quang Vinh)

Ngày 25/11, Quốc hội cho ý kiến về dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi). Theo Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn Hải Phòng), giám sát điện tử không phải để trừng phạt, mà là phương tiện bảo vệ người cai nghiện, giảm áp lực quản lý, tăng hiệu quả phòng ngừa.

Đại biểu Nguyễn Thị Việt Nga (Đoàn Hải Phòng) cơ bản tán thành với nhiều nội dung quan trọng của Dự thảo Luật Phòng, chống ma túy (sửa đổi). Bà Nga nhấn mạnh: Đây là đạo luật then chốt, có tác động trực tiếp đến bảo đảm an ninh con người, an ninh xã hội và an ninh quốc gia. 

Về quy định thời hạn cai nghiện lần đầu 24 tháng và lần thứ hai 36 tháng (Điều 28 dự thảo), bà Nga đồng tình với quy định trên và cho rằng quy định này là đúng đắn và cần thiết.

Bà Nga đưa ra phân tích: Thời hạn 24 tháng đối với lần đầu và 36 tháng đối với lần thứ hai là phù hợp với quy trình cai nghiện đầy đủ, bao gồm: tiếp nhận, phân loại; điều trị cắt cơn, giải độc; điều trị rối loạn tâm thần; giáo dục, tư vấn, phục hồi hành vi; lao động trị liệu; và giai đoạn chuẩn bị tái hòa nhập. “Đây là quy trình mang tính khoa học, không thể thực hiện trong thời gian ngắn mà vẫn đảm bảo hiệu quả”, bà Nga nói.

Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy các mô hình cai nghiện ngắn hạn ở nhiều địa phương, thậm chí chỉ 3 - 6 tháng, đều dẫn đến tỷ lệ tái nghiện rất cao. Người nghiện thường chưa kịp ổn định thể chất thì rối loạn tâm lý, hành vi vẫn còn, dẫn đến dễ dàng quay lại sử dụng.

Bà Nga phân tích tiếp rằng, ma túy tổng hợp, đặc biệt là các chất kích thích ATS hiện chiếm hơn 70% trong các vụ việc theo thống kê của các cơ quan chức năng, gây tổn thương não bộ lâu dài, đòi hỏi quá trình trị liệu và phục hồi dài hạn. Nếu chúng ta tiếp tục duy trì thời gian cai nghiện ngắn, pháp luật sẽ đứng sau thực tiễn, không đủ công cụ để bảo vệ chính người nghiện và cộng đồng. Vì vậy, quy định tăng thời hạn cai nghiện là cần thiết, hợp lý, phù hợp với bằng chứng khoa học, góp phần giảm tỷ lệ tái nghiện và cải thiện chất lượng cai nghiện.

Về quy định người nghiện từ 12 đến dưới 18 tuổi được cai nghiện bắt buộc tại trường giáo dưỡng (Điều 35 dự thảo), bà Nga đánh giá đây là chính sách thể hiện tính nhân văn sâu sắc, đồng thời phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em.

Nhất trí với quy định này bà Nga nêu rằng, trường giáo dưỡng là môi trường vừa đảm bảo kỷ luật, vừa có chương trình giáo dục văn hóa, giáo dục nghề nghiệp. Điều này giúp các em không bị đứt gãy quá trình học tập, tránh mặc cảm, tránh môi trường tội phạm, điều rất dễ xảy ra khi đưa trẻ vào cơ sở cai nghiện chung với người trưởng thành.

Lứa tuổi 12 - 18 là giai đoạn chưa hoàn thiện về tâm sinh lý. Các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ. Vì vậy, phương án đưa vào trường giáo dưỡng thay vì cơ sở cai nghiện thông thường giúp bảo vệ các em khỏi nguy cơ bị tổ chức tội phạm tác động, lợi dụng.

Điều 35 dự thảo cũng quy định đầy đủ về thủ tục, hồ sơ, quyền đọc hồ sơ, quyền của gia đình, thời hạn chấp hành cho thấy sự bảo đảm tối đa quyền trẻ em, đồng thời vẫn duy trì được tính răn đe và hỗ trợ phục hồi cần thiết. Đây là bước tiến quan trọng trong chính sách đối với người chưa thành niên sử dụng ma túy. Tuy nhiên, việc đưa người nghiện từ 12 đến dưới 18 tuổi cai nghiện bắt buộc tại các trường giáo dưỡng cần đồng bộ với việc bổ sung đầy đủ các trang thiết bị, nhân lực cho việc cai nghiện  (cán bộ y tế, nhân viên hỗ trợ tâm lý) với quy trình cai nghiện đầy đủ và khoa học để đảm bảo hiệu quả cai nghiện.

Về việc mở rộng sử dụng giám sát điện tử đối với người cai nghiện tự nguyện, người điều trị Methadone và người bị quản lý sau cai (quy định nằm rải rác tại Điều 23, 31, 32, 33 và quản lý sau cai)

Đây là một trong những điểm mới táo bạo, tiến bộ, giúp hiện đại hóa công tác quản lý cai nghiện, phù hợp xu hướng quốc tế.

Bà Nga đồng ý cao với chính sách này vì giám sát điện tử giúp cơ quan chức năng phát hiện sớm nguy cơ tái nghiện, phát hiện việc tiếp xúc với “điểm nóng” ma túy hoặc nhóm đối tượng có nguy cơ cao. Điều này hỗ trợ rất lớn cho chính quyền cơ sở vốn đang thiếu nhân lực.

“Khi người cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng không bị cô lập trong môi trường tập trung, giám sát điện tử chính là “hàng rào mềm” giúp họ giữ kỷ luật bản thân, tránh xa cạm bẫy ma túy nhưng vẫn không bị kỳ thị, không bị tách khỏi môi trường xã hội”, bà Nga nêu rõ và cho hay trong điều trị Methadone vốn cần tuân thủ nghiêm ngặt về thời gian và liều lượng. Giám sát điện tử giúp theo dõi việc sử dụng thuốc. Phát hiện trường hợp bỏ liều, tăng liều bất thường. Hỗ trợ cảnh báo nguy cơ sốc ma túy hoặc sử dụng ma túy tổng hợp kết hợp, vốn đang gia tăng mạnh.

Đối với giai đoạn sau cai vốn là giai đoạn nguy hiểm nhất, giám sát điện tử giúp cơ quan quản lý nắm dữ liệu di chuyển, tiếp cận, góp phần phòng ngừa tái nghiện, đồng thời phát hiện nhanh những biến động bất thường về sức khỏe hoặc hành vi. Như vậy, giám sát điện tử không phải để trừng phạt, mà là phương tiện bảo vệ người cai nghiện, giảm áp lực quản lý, tăng hiệu quả phòng ngừa.

Việt Thắng - Trung Hiếu