Giữ mạch chảy di sản trong cộng đồng
Việt Nam sở hữu kho tàng nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc thiểu số vô cùng phong phú, chứa đựng những giá trị văn hóa đặc sắc gắn với đời sống cộng đồng. Tuy nhiên, không ít loại hình đang dần bị lãng quên, chưa được nhận diện đầy đủ hoặc khai thác đúng hướng. Thực trạng ấy đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có chiến lược bảo tồn và phát huy hiệu quả hơn trong giai đoạn hiện nay.

Bản sắc hội tụ từ cộng đồng đa tộc người
Trong đó, nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc thiểu số nước ta từ lâu được xem là “tiếng nói tâm hồn” của mỗi tộc người. Đó là nơi lưu giữ ký ức, tri thức sản xuất, phong tục, tín ngưỡng và đời sống tinh thần phong phú của đồng bào.
Ở miền núi phía Bắc, những câu hát Then, hát Lượn, khèn Mông… của các dân tộc thiểu số mang trong mình nhịp sống núi rừng. Điệu Then gắn bó với lễ cấp sắc, lễ cầu mùa; điệu khèn gói trong mình tâm trạng của chàng trai Mông trong lễ hội mùa xuân. Dưới mái nhà sàn, những điệu xòe Thái vòng tay nối vòng tay đã trở thành biểu tượng đoàn kết của cộng đồng xuyên suốt nhiều thế hệ.
Tại Tây Nguyên, dân vũ cồng chiêng hòa cùng nhịp chiêng, tiếng trống, bước chân vỗ đất tạo nên bản hòa tấu độc đáo, là “kiệt tác truyền khẩu và di sản phi vật thể của nhân loại. Điệu múa khiên, múa sạp, múa xoang không chỉ phục vụ lễ hội mà còn phản ánh cả thế giới quan và nhân sinh quan của cư dân bản địa.
Ở Nam Bộ, điệu lý, vè, hò… rộn ràng sắc màu văn hóa vùng sông nước. Mỗi nghi lễ, mỗi mùa lễ hội đều có tiếng hát, tiếng nhạc riêng. Đó như một “ngôn ngữ nghệ thuật” đặc trưng của cộng đồng.
Điểm chung của các loại hình này là sự mộc mạc, giàu tính cộng đồng nhưng cũng đầy tính nghệ thuật. Chúng phản ánh triết lý sống, lịch sử và nét đẹp nhân văn của từng tộc người. Nhờ đó, nghệ thuật biểu diễn trở thành cầu nối văn hóa giữa các vùng miền, đóng góp vào diện mạo văn hóa chung của quốc gia.
Theo PGS.TS Kiều Trung Sơn - Viện Nghiên cứu Văn hóa: Nghệ thuật biểu diễn của các dân tộc thiểu số Việt Nam bao gồm nhiều hình thức biểu hiện như múa, hát, chơi nhạc cụ..., có mặt trong nhiều sự kiện văn hóa. Điểm chung nhất của nghệ thuật này ở các dân tộc là tính phức hợp nhiều yếu tố nghệ thuật. Mỗi dân tộc có nghệ thuật biểu diễn với cách biểu hiện đặc trưng riêng không thể nhầm lẫn.
Còn PGS.TS Lê Ngọc Thắng - Tổng Biên tập Tạp chí Dân tộc và Thời đại cho rằng: Những vẻ đẹp của các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc; những hình thức diễn xướng, những yếu tố đa dạng của các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo biểu hiện qua phần lễ, phần hội, nghi thức, tập quán truyền thống với tri thức địa phương, tộc người về vũ trụ, nhân sinh…là kho vốn thu hút các nhóm du khách đến với loại hình du lịch với các mục đích khoa học, nghệ thuật, khám phá văn hoá, lịch sử, lối sống…
Bảo tồn gắn với du lịch
Dân ca của các dân tộc thiểu số là một trong những giá trị văn hóa đặc sắc, góp phần làm nên diện mạo văn hóa truyền thống của cộng đồng. Tuy nhiên, trước làn sóng giao thoa và hội nhập văn hóa ngày càng mạnh mẽ, nhiều làn điệu cổ đang đối diện nguy cơ mai một, thậm chí thất truyền, nếu không có giải pháp bảo tồn kịp thời và hiệu quả.
Theo PGS.TS Kiều Trung Sơn, di sản nghệ thuật biểu diễn dân tộc, khi đã được nhận thức là tài sản, là một loại vốn văn hóa, phát triển kinh tế du lịch, nó sẽ có nhiều cơ hội hơn để tái sáng tạo, để hiện diện liên tục trong đời sống xã hội ở nhiều bối cảnh khác nhau, với nhiều đối tượng con người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Đó thực sự là một phần rất đáng kể của vấn đề kinh tế di sản. Mặt khác, nhờ được “sống” và được lan tỏa thường xuyên, di sản thực sự đã được bảo vệ và phát huy một cách thực chất và bền vững.
Khai thác giá trị di sản nghệ thuật biểu diễn dân tộc bằng sự sáng tạo phương thức biểu diễn, dựng tiết mục mới, sáng tác tác phẩm mới trên chất liệu nghệ thuật di sản… tạo nên những sản phẩm du lịch mang bản sắc độc đáo văn hóa vùng miền, văn hóa dân tộc đồng thời cũng là một hướng bảo vệ và phát huy tốt sự đa dạng các biểu hiện văn hóa theo tinh thần Công ước UNESCO 2005 đã tuyên bố.
Nhìn ở góc độ tác động khi khai thác phát triển sản phẩm du lịch, PGS.TS Lê Ngọc Thắng cho rằng, trong quá trình hoạt động cũng nẩy sinh nhiều vấn đề đặt ra trên bình diện nhận thức, quản lý, tạo dựng sản phẩm du lịch văn hoá…của các chủ thể tham gia vào các loại hình du lịch; bị tác động của kinh tế thị trường, “thương mại hoá” các sản phẩm du lịch văn hoá… ảnh hưởng và tạo hệ luỵ đến mai một bản sắc văn hoá dân tộc, bóp méo sự thật giá trị di sản.
Vì lẽ đó, ông Thắng khuyến nghị, việc khai thác, phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể cần đảm bảo tôn trọng giá trị, tính chân thực của di sản văn hoá phi vật thể. Đảm bảo vai trò của cộng đồng, chủ thể văn hoá trong bảo tồn, phát huy bản sắc di sản trong hoạt động du lịch. Đảm bảo lợi ích bền vững của quốc gia, địa phương, tộc người hài hoà trong các mối quan hệ giữa kinh tế, văn hoá - xã hội, môi trường, trước mắt và lâu dài.