Dành trọn đời cho công tác nghiên cứu khoa học, GS Phan Hữu Dật là một trong những nhà khoa học đầu ngành về Dân tộc học Việt Nam. Nhiều khóa liền, ông tham gia Hội đồng Tư vấn về Dân tộc của UBTƯ MTTQVN trong vai trò Phó chủ nhiệm với những đóng góp sắc sảo, chân thành.
GS.TS NGND Phan Hữu Dật.
Học tập suốt đời
Sinh ra trong một gia đình có 11 người con, ngay từ nhỏ cậu bé Phan Hữu Dật đã được hướng theo con đường học tập. Cha ông vốn là một hương sư đã luôn song hành cùng con trên mỗi bước đường đến trường: từ việc gửi gắm con cho thầy giáo với tất cả tấm chân tình đến việc bên con trong những bước ngoặt quan trọng. Gần một thế kỷ đã trôi qua nhưng trong tâm trí GS Phan Hữu Dật vẫn luôn ghi nhớ hình ảnh người cha với tất cả sự xúc động, tự hào khi đón nhận tin con trai đỗ thứ hạng cao trong cuộc thi toàn trường.
Học ở người cha tính thanh liêm, giản dị, nhưng GS Phan Hữu Dật thừa nhận nếu không có sự vượt lên chính mình, không có Đảng, không có cách mạng thì cuộc đời ông có lẽ cũng dừng lại là một thầy giáo làng. Năm 1963, ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công Luận án Phó Tiến sĩ chuyên ngành Dân tộc học ở nước ngoài (tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp) với đề tài “Các dân tộc nói tiếng Môn-Khơ me ở miền Bắc Việt Nam”.
Nhớ lại quyết định có tính bước ngoặt trong cuộc đời mình, GS Phan Hữu Dật kể lại, ông được cử sang Liên Xô học khoa Lịch sử trường ĐH Tổng hợp Lômônôxốp. Khi còn đang băn khoăn chưa biết lựa chọn chuyên ngành nào, ông nhận được lời khuyên quý báu của GS Trần Văn Giàu, khi đó đang dạy ở Đại học Văn khoa Hà Nội: "Nước ta có nhiều dân tộc. Chú học Dân tộc học đi, hay lắm”. Cùng với đó là những trăn trở về đời sống của người dân tộc ít người ở Việt Nam những năm còn ở quê nhà Thanh Lương đã khiến Phan Hữu Dật quyết định theo học chuyên ngành Dân tộc học. Ông thực hiện Luận án Cử nhân về người Xinh - Mun Tây Bắc Việt Nam và sau đó phát triển thành Luận án Phó tiến sĩ về Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme ở miền Bắc Việt Nam.
Ngoài khả năng nghiên cứu, phát hiện vấn đề, tư duy khoa học nhạy bén thì những ngày tháng lăn lộn thực tế tại địa phương đã giúp ông hoàn thành luận án xuất sắc, được Hội đồng bảo vệ đánh giá cao. Đặc biệt, rất nhiều quan điểm nghiên cứu mà GS Phan Hữu Dật là người đầu tiên đưa ra đã được giới Dân tộc học nước ta chấp nhận như tên gọi chính thức của đồng bào Xinh – Mun thay vì tên gọi Puộc; cách phân chia dân tộc Xinh – Mun làm hai ngành Dạ - Nghẹt… Đến sau này, ông còn có những phát hiện quan trọng về hình thái hôn nhân liên minh 3 thị tộc; giải mã được tục Chuê nuê của người Ê đê…
Lựa chọn con đường nghiên cứu gian khổ nhưng gắn bó mật thiết với đời sống dân tộc Việt Nam, GS Phan Hữu Dật luôn mong muốn và trên thực tế đã có những đóng góp cụ thể cho sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc ít người trên khắp dải đất hình chữ S.
Ở vào cái tuổi xưa nay hiếm, GS Phan Hữu Dật đã có thể an dưỡng tuổi già như nhiều bậc cao niên khác. Nhưng ông vẫn say mê làm việc, nghiên cứu tư liệu, viết sách, đóng góp vào các công trình nghiên cứu khoa học. Nhìn lại cuộc đời ông, dù trải qua những năm tháng mà đến cái ăn, cái mặc còn thiếu, chiến tranh bom đạn ác liệt là thế nhưng chưa bao giờ ông xa rời việc học tập, trau dồi tri thức. Khẳng khái mà chân tình, ông tự tổng kết về cuộc đời mình: "Khi thoát ly gia đình ra đi đã ngẩng cao đầu. Nay lá rụng về cội, nhìn về làng quê đầu vẫn ngẩng cao lòng đầy tự hào”.
Quỹ Giải thưởng Phan Hữu Dật thành lập năm 2011, trên cơ sở đóng góp tự nguyện 100 triệu đồng của GS. TS. NGND Phan Hữu Dật. Hàng năm, Quỹ sẽ trao 15 suất học bổng (trị giá 1 triệu đồng/suất) cho sinh viên ngành Nhân học – tiền thân là ngành Dân tộc học (trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội) có kết quả cao trong học tập và nghiên cứu khoa học. Ông hy vọng, Quỹ sẽ góp phần giúp đỡ sinh viên, học viên Bộ môn Nhân học phát huy trí tuệ. |
"Bảo tàng mini” dành cho thế hệ sau
Trong căn nhà ở phường Bồ Đề, Gia Lâm (Hà Nội) của GS Phan Hữu Dật có một căn phòng rất đặc biệt diện tích chỉ vào khoảng 15m2. Nơi đây trưng bày rất nhiều các hiện vật, tư liệu kể lại câu chuyện cuộc đời của ông một cách tỉ mỉ, khoa học và sinh động theo từng nhóm chủ đề: "Quê hương”, "Du học ở Liên Xô”, "Tình duyên bắc qua hai thế kỉ”, "Cánh chim không mỏi”... Từ những năm tháng sống ở quê nhà, làng Thanh Lương bên bờ sông Bồ, huyện Hương Trà (tỉnh Thừa Thiên - Huế) cho đến những ngày du học ở trường ĐH Tổng hợp Lômônôxốp (Liên Xô) và sau đó là quá trình công tác tại trường ĐH Tổng hợp Hà Nội, Đại học Văn khoa Sài Gòn… Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời đều được ông trân trọng và dành nhiều tâm huyết để lưu giữ lại, mà theo lời ông là "tài sản tinh thần để lại cho con cháu chắt, cho đại gia đình tôi và cho dòng họ Phan. Năm tháng qua đi. Sau này ai đó đến đây sẽ biết rằng: ngày trước có một chàng trai xứ Huế đã trải qua một cuộc đời như thế”.
Hơn 200 triệu là số tiền GS. Phan Hữu Dật đầu tư để thực hiện phòng lưu niệm mà theo PGS.TS Nguyễn Văn Huy (nguyên Giám đốc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam) đánh giá là "một trong những Phòng lưu niệm về nhà khoa học đầu tiên ở Hà Nội và nước ta được chuẩn bị rất công phu, chuyên nghiệp”. Trong không gian rất thú vị này, đặc biệt có những hiện vật thu hút sự chú ý như chiếc đàn tính của người Tày, chiếc khèn của người Mông, con dao quắm đi rừng… Có cái là do ông sưu tầm được từ những chuyến đi thực tế điền dã tại các địa phương, có cái là do học trò, bạn bè tặng vì biết ông rất trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc ít người.
Chạm tay vào từng hiện vật, lật giở từng trang tư liệu, cuộc đời của chàng trai xứ Huế “từ làng Thanh Lương ra đi lăn lộn khắp đất nước và đặt chân lên nhiều nơi khắp năm châu bốn biển, trong hòa bình cũng như dưới mưa bom bão đạn” suốt gần một thế kỷ qua đã được tái hiện một cách sinh động trong không gian bảo tàng.
Cuộc tình duyên bắc qua hai thế kỷ
Ngày 1-1-2016 đánh dấu 62 năm song hành của GS Phan Hữu Dật và phu nhân Nguyễn Phước Chánh Thành. Ông nhớ lại buổi đầu hai người gặp nhau là vào một sáng mùa hè năm 1949, tại bến đò Chu Lễ (Hà Tĩnh). Khi đó, ông học trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng còn Chánh Thành học trường Phan Đình Phùng. Cả hai đều tham gia công tác hiệu đoàn học sinh. Vùng Nghệ Tĩnh trong 3 năm 1949-1951, đã in dấu chân song hành như hình với bóng của hai người. Sau 5 năm gắn bó trong lửa đạn chiến tranh, ngày 1-1-1954, hai người làm lễ cưới giản dị, có hoa mà không có pháo...
Buổi tối, đôi tân hôn trải chiếu dưới đất trong nhà người chị ở đồi Linh Cảm để ngủ. Nhà chật ních người ra vào, không trao đổi được với nhau dù chỉ một nụ hôn… Sáng sớm hôm sau, ông từ giã vợ lên đường ra Bắc cho kịp dự đợt phát động quần chúng giảm tô ở Thanh Hóa. Lần gặp lại sau đó đã là hơn 6 tháng sau…
Một chặng đường dài, rất dài với nhiều sự xa cách về không gian địa lý nhưng lại đầy ắp nhớ nhung, trân quý. Trên tất cả là sự tin yêu, tin tưởng đã giúp ông bà sống trọn vẹn nghĩa phu thê.
Trong quá trình công tác, GS Phan Hữu Dật từng giữ nhiều chức vụ: Hiệu trưởng trường ĐH Tổng hợp Hà Nội năm 1985, là Ủy viên Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Quyền Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội dân tộc học Việt Nam, GS danh dự của trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp, Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân tộc của UBTƯMTTQVN… |