Bản thân những con tàu đắm là một kho báu vô giá với những câu chuyện thần kỳ đằng sau chuyến đi xấu số, lấp lánh hơn so với bất kỳ thỏi vàng hay viên đá quý nào có thể nằm dưới đáy biển.
Xác con tàu thám hiểm HMS Endurance, sau 107 năm nằm sâu dưới đáy vùng biển băng giá ở Nam Cực, đã được tìm thấy và được cho là con tàu đắm có giá trị nhất từng được khám phá. Đó là bởi con tàu đã mang thêm một chương mới đầy ly kỳ cho câu chuyện ‘huyền thoại’ về sự kiên trì và sinh tồn đã vang vọng trong nhiều thập kỷ.
Tham vọng lớn
Nhà thám hiểm địa cực người Anh gốc Ireland Ernest Shackleton luôn mang một nỗi ám ảnh lâu năm với vùng ‘Lục địa Trắng’ Nam Cực. Lý do Ernest Shackleton vẫn luôn được ca tụng là một “vĩ nhân” vào thời điểm danh tiếng của các nhân vật lịch sử khác đang sụp đổ sẽ trở nên rõ ràng, khi con người chứng kiến những gì ông đã phải đối mặt trong suốt chuyến thám hiểm thần kỳ từ năm 1914 – 1916.
Trước chuyến đi của tàu Endurance, Shackleton đã tự khẳng định mình là một nhà thám hiểm vùng cực sau khi gia nhập hải quân thương nhân. Ông buộc phải rời khỏi đoàn thám hiểm Nam Cực năm 1906 do sức khỏe yếu, nhưng ông cũng đã dẫn dắt một đoàn thám hiểm khác thành công về phía nam vào năm 1908. Chiến công của ông đã mang lại cho ông một danh hiệu hiệp sĩ, trở thành Ngài Ernest Shackleton vào năm 1909.
Nhiệm vụ Nam Cực cuối cùng của Shackleton đã bắt đầu với những tham vọng lớn lao. Sau khi tuyển chọn được 27 người đàn ông, Shackleton hy vọng sẽ cùng họ thực hiện chuyến đi xuyên Nam Cực đầu tiên bằng đường bộ, chỉ vài năm sau khi nhà thám hiểm người Na Uy Roald Amundsen trở thành người đầu tiên đặt chân đến Nam Cực.
“Chuyến thám hiểm xuyên Nam Cực của Đế chế”
Ngày 5/12/1914, tất thảy Shackleton cùng 27 người đàn ông đã lên con tàu Endurance, một con tàu gỗ với ba cột buồm và được trang bị động cơ hơi nước, bắt đầu chuyến hành trình đến Lục địa Trắng. Con tàu khởi hành từ hòn đảo Nam Georgia (Anh) đến eo biển McMurdo của Nam Cực vào năm 1915.
Theo những câu chuyện kể lại, vào khoảng thời gian năm 1914, thời tiết băng giá trở nên tồi tệ hơn bình thường ở Nam Cực. Chỉ hai ngày sau khi rời đảo Nam Georgia, tàu Endurance tiến vào vùng băng nổi – lớp chướng ngại vật gồm các tảng băng biển dày vây quanh Nam Cực.
Trong suốt vài tuần sau đó, con tàu phải chậm rãi tìm đường đi qua các tảng băng nổi, tiến về hướng Nam. Nhưng vào ngày 18/1/1915, một cơn bão phía bắc đã thổi dạt đám băng vào đất liền, khiến chúng nén chặt vào nhau.
Con tàu đã bị mắc kẹt giữa lớp băng dày không thể xuyên thủng ở biển Weddell. 28 người đàn ông trên tàu, bao gồm cả chính nhà thám hiểm Shackleton, họ giống như hạt hạnh nhân mắc kẹt giữa thanh chocolate.
Đến ngày 24/2/1915, khi mùa đông vẫn chưa có dấu hiệu rời bỏ Nam Cực, đoàn thám hiểm đã quyết định rời bỏ tàu Endurance, kiên nhẫn hết sức có thể để chờ điều kiện thuận lợn hơn nhằm thoát khỏi khu vực. Một ‘trạm trú ẩn mặt đất’ đã được dựng phía trên lớp băng lạnh cóng. Họ buộc phải săn bắt hải cẩu và chim cánh cụt để làm thức ăn cho thủy thủ đoàn.
Trong những tháng ngày mắc kẹt giữa biển, đây được xem là bài kiểm tra dành cho Shackleton với tư cách là một nhà lãnh đạo. Nhưng theo Alexander Macklin, một bác sĩ trên tàu Endurance lúc đó, Shackleton đã không hề tức giận chút nào, cũng không tỏ ra dấu hiệu thất vọng dù nhỏ nhất.
‘Ông chủ’, như cách thủy thủ đoàn gọi Shackleton, luôn biết cách khiến đồng đội lạc quan với các trận đấu bóng đá và khúc côn cầu trên băng, tổ chức nghiên cứu khoa học và hàng hải. Họ cũng tổ chức những bữa tiệc để đánh dấu một vài sự kiện quan trọng của đoàn. Ngoài ra, còn là những câu chuyện cười thực tế.
Những hình ảnh đẹp đến ám ảnh của Frank Hurley, nhiếp ảnh gia chính thức của đoàn thám hiểm, về con tàu bị mắc kẹt và khung cảnh băng giá khắc nghiệt đã xây dựng nên hình ảnh vị anh hùng địa cực huyền thoại Shackleton thế kỷ 20.
Tạm biệt con tàu Endurance
Bất chấp những nỗ lực không ngừng để giải thoát Endurance, con tàu vẫn bị mắc kẹt trong suốt những tháng mùa đông đen tối đầy bão tố. Sau đó, vào tháng 10, với sự dịch chuyển và mài mòn của nhiều tảng băng xung quanh, con tàu đã không chịu nổi áp lực và bị ép nghiêng, thân tàu bị hư hại và nước biển tràn vào.
Thời điểm đó, đoàn thám hiểm đang ở cách xa các nền văn minh hàng nghìn dặm, không có bất kỳ phương tiện nào để kết nối với thế giới bên ngoài, Shackleton cùng thủy thủ đoàn chỉ có thể nhìn những tảng băng từ từ nghiền nát Endurance, cuối cùng nhấn chìm con tàu vài tuần sau đó.
Trong khoảng thời gian từ lúc rời tàu HMS Endurance cho tới lúc chứng kiến băng nuốt trọn con tàu, thủy thủ đoàn đã tìm cách giữ lại lương thực dự trữ nhiều nhất có thể. Kế hoạch ban đầu của đoàn là di chuyển qua vùng băng tiến về đất liền, nhưng kế hoạch đã bị hủy bỏ ngay sau đó, khi họ chỉ gắng sức đi được 12km trong 7 ngày.
Shackleton viết trong cuốn sách về cuộc hành trình của ông: “Không có lựa chọn nào khác ngoài việc việc cắm trại trên tảng băng trôi một lần nữa và kiên nhẫn”.
Dần dần, tảng băng dạt xa hơn về phía bắc và ngày 7/4/1916, thủy thủ đoàn đã nhìn thấy đỉnh núi phủ tuyết của đảo Clarence và đảo Voi, một tia hy vọng giữa chuyến hành trình tăm tối. Họ mang theo ba chiếc thuyền cứu sinh nhỏ bằng gỗ của Endurance, nhưng cần đợi cho đến khi đất liền gần đủ để hạ thủy.
Đến ngày 11/4/1916, tảng băng đã vỡ, tách đôi sau tiếng nứt mạnh phía dưới, Shackleton cùng thủy thủ đoàn Endurance đã phá trại và hạ thuyền cứu hộ. Giờ đây kẻ thù mà họ phải đối mặt chính là đại dương bao la. Con thuyền nhỏ rung lắc dữ dội khiến những thủy thủ dũng cảm nhất cũng phải cuộn người như trẻ con khi chống chọi với đại dương và cơn say sóng.
Trong suốt thời gian đó, thuyền trưởng Frank Worsley đã chèo lái con thuyền qua sóng gió, thức trắng 80 tiếng đồng hồ. Sau 6 ngày lênh đênh trên sóng dữ, đảo Clarence và đảo Voi đã hiện ra đằng xa, cách chừng 48km. Toàn đội kiệt sức. Một số kiệt quệ vì say sóng, một số lại bị kiết lỵ hành hạ. Ít nhất một nửa đoàn thám hiểm đã không còn tỉnh táo. Dù vậy, họ vẫn quyết tâm chèo thuyền tới mục tiêu và vào ngày 15/4, họ đã tới bờ đảo Voi.
Vinh quang đồng nghĩa với ‘không từ bỏ’
Chỉ vài ngày sau, Shackleton, thuyền trưởng Worsley cùng 4 người đàn ông khác đã tiếp tục bắt tay vào phần rủi ro nhất trong chuyến hành trình trên tàu cứu sinh James Caird, tìm kiếm giúp đỡ từ trạm săn cá voi ngoài khơi Nam Georgia, cách đó gần 1.300 km.
Trong 16 ngày liền, họ đã vượt sóng to gió lớn, liên tục phải múc nước ra khỏi tàu và đập tảng băng đóng vào cánh buồm. Con tàu bị quăng lên vật xuống trên sóng lớn, dưới bầu trời xám xịt. Mỗi cơn sóng trên đại dương đều là kẻ thù cần phải đối mặt. Và cứ mỗi lần tưởng như sắp chạm tới đích, lại có những bất ngờ ập đến.
Vào một ngày gió biển dường như thổi nhẹ hơn, họ đã cập bờ. Con thuyền gần như sắp tìm được hy vọng nhưng một cơn bão lại đẩy tàu James Caird ra xa và họ đã dạt vào phía bờ đối diện với trạm săn cá voi. Shackleton, thuyền trưởng Worsley và nhà thám hiểm người Ireland Tom Crean đành phải đi bộ 36 tiếng, vượt núi, vượt sông băng, đi qua những nơi con người chưa từng đặt chân tới, lê từng bước tới trạm săn cá voi ở Vịnh Stromness.
Không một ai có thể hình dung nổi hình ảnh ba người đàn ông lạ mặt thình lình xuất hiện tại trạm săn cá voi từ hướng núi, râu tóc bờm xờm, mặt đen nhẻm vì bồ hóng và dầu mỡ, kiệt quệ sau gần hai năm sinh tồn căng thẳng.
Sau khi đón ba thành viên trên tàu James Caird, mọi người dồn chú ý vào cuộc giải cứu 22 thành viên còn lại trên đảo Voi. Tuy nhiên, nhiệm vụ cuối cùng lại là thử thách tốn thời gian nhất. Con tàu đầu tiên mà Shackleton khởi hành đã cạn kiệt nhiên liệu khi lần đường qua đám băng trôi và buộc phải trở về quần đảo Falkland. Con tàu cứu họ do chính phủ Uruguay điều tới đảo Voi đã bị băng đánh bật trở lại.
Trong khi đó, cứ mỗi sáng trên đảo Voi, Frank Wild, người mà Shackleton giao nhiệm vụ quản lý nhóm, đều kêu gọi mọi người chuẩn bị sẵn sàng vì Shackleton có thể trở về hôm nay. Ngày qua ngày, các thủy thủ trên đảo ngày càng mất tinh thần và hoài nghi. Nhiều người đã từ bỏ hy vọng rằng sẽ có tàu tới cứu.
Nhưng Shackleton không bao giờ chấp nhận bỏ đồng đội lại phía sau. Ngày 30/8/1916, chuỗi ngày gian khổ của nhóm thám hiểm đã chấm dứt, sau 128 ngày kể từ khi thuyền cứu sinh James Caird rời đi. Khi những thủy thủ sót lại trên đảo Voi đang ăn khẩu phần cuối cùng, họ đã thấy con tàu cứu hộ Yelcho của Shackleton ngoài khơi.
Toàn bộ những người trên đảo đã nhổ trại và rời đảo Voi. Sau đó, tất thảy 28 người đàn ông lên đường đến Chile và cuối cùng họ đã thành công đặt chân đến Punta Arenas vào ngày 3/9/1916.
20 tháng sau khi khởi hành tới Nam Cực, không một người đàn ông nào thiệt mạng suốt cuộc hành trình. Mặc dù nhiệm vụ của Shackleton đã thất bại nặng nề, nhưng sự sống sót thần kỳ của đội thám hiểm sau 20 tháng trôi dạt ngoài khơi đã được coi là chiến thắng lớn nhất, với sự kiên trì và kỹ năng lãnh đạo đáng kinh ngạc của Shackleton – một chiến thắng vượt xa mọi vinh quang của cuộc viễn chinh.