Tổng hợp số liệu từ các địa phương trong 10 năm qua cho thấy, tình hình bạo lực gia đình tuy có giảm về số vụ, năm sau thấp hơn năm trước nhưng mức độ chưa chắc đã giảm. Đáng chú ý, vẫn còn một khoảng cách lớn giữa các ngành khi tổng hợp thông tin về bạo lực gia đình.
Tại Hội nghị tổng kết 10 năm thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình do Bộ VHTTDL tổ chức, sáng ngày 12/12, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng băn khoăn giữa con số thực và báo cáo từ các địa phương đưa lên.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt câu hỏi: Nếu chia số vụ ly hôn cho 10 năm thì mỗi năm cả nước có 100.000 vụ bạo lực gia đình (BLGĐ) phải ly hôn. Vậy tại sao báo cáo của các Sở VHTTDL, Sở VHTT về Bộ VHTTDL thì năm 2017 chỉ có 13.000 vụ BLGĐ? Nếu chia trung bình thì mỗi năm, mỗi xã, phường chỉ có 1 vụ BLGĐ. Có phải do khái niệm khác nhau, hay các địa phương không nắm được số liệu? Hoặc nắm được số liệu mà sợ mất thành tích, thi đua nên mới chênh lệch như vậy?
Có thể thấy, băn khoăn của Phó Thủ tướng cũng lý giải bất cập trong công tác phòng, chống BLGĐ ngay từ các cấp cơ sở. Bởi thực tế việc nhận diện hành vi BLGĐ luôn là nhiệm vụ khó với chính cán bộ tại địa phương. Việc phát hiện, thống kê những hình thức bạo lực đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong tổng hợp, phân tích, đánh giá thông tin.
Trong khi đó, đội ngũ công chức hiện nay, đặc biệt là công chức về văn đề văn hóa - xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ. Chưa kể về chuyên môn những công chức văn hóa, xã hội còn kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau thuộc các lĩnh vực khác nhau, luôn có biến động.
Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ VHTTDL kiểm tra tình hình BLGĐ tại cộng đồng dân cư cho thấy, các hành vi bạo lực gia đình xuất hiện khá phổ biến . Song phần lớn nó không được coi là bạo lực gia đình hoặc bị che giấu vì yếu tố văn hóa hoặc vì thành tích “gia đình văn hóa”, “khu dân cư văn hóa”. Vì vậy, các vụ bạo hành gia đình diễn ra trong cộng động dân cư đã không được tổng hợp, báo cáo về xã/phường/thị trấn một cách đầy đủ.
Bên cạnh đó, sự chênh lệch này cũng một phần bởi nguyên là do nhận thức của cộng đồng về BLGĐ hiện nay còn thấp. Điều này dẫn đến tâm lý e dè, cam chịu của nạn nhân, mà chủ yếu là phụ nữ, vẫn chưa dám lên tiếng, không muốn tố cáo, sợ “vạch áo cho người xem lưng”.
Phần lớn các nạn nhân bị BLGĐ thường che giấu, không cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng. Thậm chí có những trường hợp vì sợ vợ (hoặc chồng) bị phạt tiền vì gây BLGĐ nên che giấu để tránh làm tổn thất kinh tế gia đình. Tương tự, trường hợp người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị xử phạt vì hành vi bạo lực với bố mẹ, nếu họ không có tiền nộp phạt thì nạn nhân là bố mẹ họ phải nộp thay.
Ngoài ra, có một thực tế là hiện nay ngay chính nhiều phụ nữ vẫn chấp nhận việc bị chồng “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” mà cắn răng chịu đựng, lâu dần thành tâm lý bị khuất phục. Dẫn tới nhiều trường hợp cứ nhẫn nhịn chịu đựng hết ngày này sang ngày khác, năm này qua năm khác cho đến lúc bị dồn vào đường cùng mới yếu ớt tìm cách phản kháng thì đã xảy ra với những hậu quả đáng tiếc.
Không hiếm những vụ án đau lòng được đăng tải trên các phương tiện truyền thông mỗi ngày kể về những điều gây nhức nhối trong các gia đình hiện nay. Chưa bao giờ những cảnh tượng chồng truy sát vợ, con giết cha mẹ, rồi cha mẹ giết con, bạo hành con cái… xảy ra thường xuyên như thời gian qua.
Có thể thấy, để phòng, chống BLGĐ điều đầu tiên phải có được sự kết hợp đồng bộ với nhiều giải pháp, song lấy phòng ngừa là chính. Ở đó, làm tốt công tác tuyên truyền sẽ giúp thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử về gia đình, từ đó dần xóa bỏ bạo lực gia đình, đề cao truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam.
Hoạt động truyền thông cần nêu rõ nguyên nhân BLGĐ là sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phân biệt địa vị, vai trò của phụ nữ và nam giới trong gia đình. Cùng với đó là làm thế nào để đưa Luật vào cuộc sống, ngăn chặn được tình trạng BLGĐ đòi hỏi sự chung tay đồng bộ của các cấp.
Theo Phó Chánh án TAND tối cao Nguyễn Văn Thuân, muốn khắc phục tình trạng BLGĐ thì trước hết cần sửa đổi quy định pháp luật. Trong đó cần bổ sung các hành vi như ép buộc mang thai, sinh sớm, sinh dày, sinh nhiều con, ép buộc lựa chọn giới tính thai nhi... là hành vi BLGĐ. Nên bổ sung tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội đối với vợ chồng, con cái” vào nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người”; xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân để xử lý nghiêm người có hành vi bạo lực gia đình nhằm răn đe chung.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết là với những người đã và đang bị BLGĐ hãy lên tiếng để bảo vệ chính bản thân và hạnh phúc gia đình mình.