Hộ nghèo vẫn khó tiếp cận chính sách
Có một tỷ lệ không nhỏ các hộ nghèo dân tộc thiểu số chưa có khả năng tiếp cận và hưởng lợi từ các chính sách giảm nghèo hiện hành.
Đồng bào nghèo vùng dân tộc thiểu số vẫn khó tiếp cận
và hưởng lợi từ cách chính sách giảm nghèo hiện hành.
Trong nhiều năm gần đây, nhóm người dân tộc thiểu số (DTTS) đã có chuyển biến tích cực trong giảm nghèo, nhưng tốc độ chỉ bằng 1/3 so với mục tiêu đề ra và chậm hơn rất nhiều so với mức giảm nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ nghèo của các hộ gia đình thuộc khu vực các xã vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn chỉ giảm từ 51% năm 2007 xuống còn 45% năm 2014 (chỉ hoàn thành được khoảng 30% so với mục tiêu đề ra). Lý do là có một tỷ lệ không nhỏ các hộ nghèo DTTS chưa có khả năng tiếp cận và hưởng lợi từ các chính sách giảm nghèo hiện hành.
Cũng không thể phủ nhận, tỷ lệ nghèo thuộc nhóm người DTTS đã giảm và mức sống được cải thiện, song có sự khác biệt về mức độ giảm nghèo, Ba Na và Mông là hai dân tộc có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất với mức giảm hơn 20%. H’rê có tốc độ giảm nghèo chậm nhất, chỉ đạt 6%.
Trong khi đó, Thái là dân tộc duy nhất có tỷ lệ nghèo tăng. Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại rõ rệt trong tương lai gần (kể cả đối với những nhóm DTTS có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất) do những biến động giảm về diện tích và chất lượng đất sản xuất, suy giảm các nguồn sinh kế bản địa do cạn kiệt nguồn tài nguyên, tác động của các công trình thủy điện và sự gia tăng rủi ro, cạnh tranh trong quá trình tham gia vào nền kinh tế thị trường. Các dân tộc có tỷ lệ nghèo cao nhất là H’rê (63%), Cơ Tu (62%), Mông (61%). Khmer và Kinh là những dân tộc có tỷ lệ nghèo thấp nhất, lần lượt là 27% và 30%.
Có một thực tế, tốc độ giảm nghèo của dân tộc Kinh ở những xã đặc biệt khó khăn cũng chậm hơn so với mức bình quân chung của cả nước. Giảm nghèo ở các hộ DTTS không bền vững trong bối cảnh những mối quan hệ xã hội truyền thống đi kèm bệ đỡ an sinh phi chính thức mang tính cộng đồng đã từng là thế mạnh của các nhóm DTTS cũng đang mai một. Tỷ lệ các hộ thoát nghèo năm 2007 và tái nghèo sau khoảng 5 đến 7 năm còn rất lớn (khoảng 20%) do thu nhập của các hộ phụ thuộc chủ yếu vào các hoạt động nông nghiệp và dễ bị tác động tiêu cực từ các thiên tai, thời tiết cực đoan và sự biến động của giá cả đầu vào và sản phẩm đầu ra...
Có sự khác biệt lớn giữa nghèo thu nhập và nghèo đa chiều, nghèo đa chiều được tính dựa trên 6 khía cạnh: giáo dục, y tế, việc làm, điều kiện nhà ở, sở hữu tài sản, và hòa nhập xã hội. Những khía cạnh này được lựa chọn dựa trên các tiêu chí sau: tầm quan trọng của các khía cạnh được đề cập đến trong các chương trình chính sách tại Việt Nam và các nghiên cứu thực nghiệm về nghèo đa chiều tại các quốc gia khác.
Tỷ lệ nghèo đa chiều của các dân tộc giảm nhanh hơn so với nghèo thu nhập trong giai đoạn vừa qua. Điều này cho thấy các DTTS đã đạt được các thành tựu giảm nghèo cao hơn ở các khía cạnh nghèo khác ngoài thu nhập. Dân tộc Thái có tỷ lệ nghèo thu nhập không giảm nhưng tỷ lệ nghèo đa chiều lại giảm đáng kể.
Dân tộc Mông, tốc độ giảm nghèo thu nhập cao hơn tốc độ giảm nghèo đa chiều. Tày và Mường là hai dân tộc có tỷ lệ nghèo đa chiều thấp, ở mức 16%, thấp hơn cả tỷ lệ nghèo đa chiều của người Kinh sống ở những xã đặc biệt khó khăn.
Dân tộc Khmer có tỷ lệ nghèo thu nhập thấp (27%) nhưng tỷ lệ nghèo đa chiều lại tương đối cao (43%) so với các dân tộc khác. Điều này cho thấy việc phân loại hộ nghèo nên sử dụng thước đo nghèo đa chiều trong quá trình đo lường nghèo và thiết kế các chương trình, chính sách giảm nghèo dành cho các nhóm DTTS.
Thu nhập thực tế bình quân của các hộ gia đình tăng rất chậm chỉ ở mức 3,7%/năm. Xu hướng nghèo kinh niên xuất hiện phổ biến, tập trung rõ ràng hơn ở các hộ gia đình thiếu đất sản xuất, thiếu lao động và thường xuyên gặp rủi ro về sức khỏe. Mặt khác, có sự khác biệt lớn về mức tăng thu nhập của các hộ gia đình trong cùng một nhóm dân tộc, điều này làm gia tăng sự khác biệt về mức sống và bất bình đẳng trong cộng đồng. Nếu năm 2007 thu nhập bình quân của 10% các hộ gia đình giàu nhất cao hơn 8 lần so với thu nhập bình quân của 10% hộ gia đình nghèo nhất thì con số này năm 2014 đã tăng lên 13 lần.
Mặc dù thu nhập bình quân của các hộ gia đình đã tăng trong thời gian này, nhưng các kết quả khảo sát và phân tích của Ngân hàng Thế giới cho thấy có 20% hộ gia đình bị giảm thu nhập danh nghĩa (chưa điều chỉnh theo lạm phát) và 46% hộ gia đình bị giảm thu nhập thực tế (đã điều chỉnh thu nhập theo lạm phát).
Cơ Tu, Thái và H’rê là những dân tộc có tỷ lệ hộ gia đình bị giảm thu nhập cao nhất. Ba Na, H’Mông và Nùng có tỷ lệ hộ gia đình giảm thu nhập thấp nhất. Nguyên nhân có thể đưa ra là, các hộ gia đình ít có cơ hội tiếp cận và làm các công việc phi nông nghiệp. Hầu hết lao động của các hộ gia đình đều làm trong lĩnh vực nông nghiệp. Tỷ lệ lao động làm việc phi nông nghiệp tăng lên rất ít, thu nhập từ việc chăn nuôi, trồng trọt vẫn đóng vai trò chủ đạo.
Tỷ lệ biết đọc biết viết đối với những người từ 15 tuổi trở lên đặc biệt thấp, nhất là những dân tộc có tỷ lệ nghèo lớn và nằm ở những vùng núi cao với địa hình phức tạp. Các hộ Mông, H’rê chỉ có 35% số người 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết. Số năm đi học của các hộ dân tộc cũng rất thấp so với mức trung bình của cả nước. Điều này cho thấy đây là những hạn chế của hệ thống chính sách nguồn nhân lực nói chung và chính sách giáo dục nói riêng đối với một số nhóm DTTS và vô tình làm giảm cơ hội tiếp cận với các công việc bền vững của nhóm người này.
Tỷ lệ người DTTS có bảo hiểm y tế tương đối cao, cho thấy mức độ bao phủ rộng và định hướng đúng đắn của các chương trình hỗ trợ y tế của Đảng và Nhà nước trong thời gian qua. Đối với hầu hết các dân tộc thiểu số, hơn 90% dân số có bảo hiểm y tế. Việc tiếp cận các dịch vụ y tế của các DTTS cũng được cải thiện đáng kể. Số lượt đến thăm khám tại các trạm y tế và tỷ lệ người dân được miễn giảm viện phí đã tăng lên. Tuy nhiên, còn tồn tại sự chênh lệch lớn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế: số lượt thăm khám tại các trung tâm y tế giữa các dân tộc có sự khác biệt rất lớn. Số lượt thăm khám bình quân tại các trung tâm y tế đối với nhóm các dân tộc có thu nhập cao như Kinh và Khmer đạt mức cao nhất còn với các hộ gia đình thuộc nhóm dân tộc có thu nhập thấp như H’Mông lại thấp nhất.
Điều kiện nhà ở và vệ sinh của các DTTS cũng được cải thiện. Tỷ lệ hộ gia đình có nhà tiêu hợp vệ sinh đều tăng ở tất cả các dân tộc. Tuy nhiên, tỷ lệ này còn thấp đối với một số dân tộc như H’Mông (3,2%), H’rê (16,7%), Ba Na (17,9%). Việc tiếp cận với nước sạch chưa được cải thiện. Các dân tộc như H’rê, Thái, Mường, H’Mông có tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nước sạch giảm đi trong giai đoạn 2007-2012.
Mục tiêu của Chương trình 135 giai đoạn II là gia tăng tỷ lệ làm việc phi nông nghiệp và thu thập từ hoạt động phi nông nghiệp đã không đạt được bởi người dân tộc thiểu số thu nhập chính dựa vào nông nghiệp, trong khi đó, diện tích đất của hầu hết các hộ đều giảm trong giai đoạn này do việc xây dựng các công trình thủy điện (dân tộc Thái ở Sơn La) hoặc do thu hồi đất phục vụ các dự án trồng cây công nghiệp như cao su, cà phê (nhóm người Ba Na ở Gia Lai, Mông ở Điện Biên). Mặt khác, có sự chênh lệch lớn về diện tích đất canh tác giữa các nhóm dân tộc đã làm gia tăng bất bình đẳng về thu nhập, Ba Na, Cơ Tu, Thái và Mông là những nhóm dân tộc có diện tích đất bình quân đầu người cao nhất và chủ yếu là đất rừng.
Tuy nhiên, thu nhập từ lâm nghiệp vẫn ở mức thấp. Chất lượng đất suy thoái do độc canh (điển hình là cây sắn) và tác động của việc xây dựng các công trình thủy điện, các nông lâm trường cây công nghiệp (cao su, cà phê) cũng như sự vận hành không tốt của các hồ thủy điện, có tác động tiêu cực, làm giảm năng suất cây trồng và giảm thu nhập của các hộ gia đình DTTS ở khu vực khó khăn. Ngoài ra, các dự án thủy lợi và chính sách tín dụng cũng chưa phát huy tính hiệu quả trong khả năng tăng thu nhập của các hộ gia đình.
Cũng theo khảo sát, chỉ có các hộ tiếp cận được với vốn vay từ Ngân hàng Chính sách Xã hội và các hộ sống ở các xã được hỗ trợ do có các công trình thủy lợi được thực hiện trong giai đoạn 2007- 2014 có mức thu nhập cao hơn. Các công trình chợ, điện và nước sạch hầu như không có tác động rõ rệt đến việc tăng thu nhập của các hộ gia đình. Điều này cho thấy việc lựa chọn các công trình đầu tư đáp ứng đúng với nhu cầu của các cộng đồng đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm nghèo và tăng thu nhập của các hộ DTTS.