Báo Đại Đoàn Kết Giáo dục

Hơn 2.600 chương trình đào tạo đại học được kiểm định chất lượng

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Hơn 2.600 chương trình đào tạo đại học được kiểm định chất lượng

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Đến nay, cả nước có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định, trong đó 696 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài. Kết quả này cho thấy hệ thống đang vượt so với mục tiêu trung hạn theo Quyết định 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Sáng 7/10, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) tổ chức hội nghị sơ kết việc thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình "Phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030".

Hội nghị tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến với khoảng 2.400 người tham gia tại 411 điểm cầu cơ sở giáo dục đại học và 6 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục.

Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số 78/QĐ-TTg, ông Huỳnh Văn Chương, Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GDĐT) cho biết, trong giai đoạn 2022-2025, hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học của Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét cả về nhận thức và hành động.

Hội nghị tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Hội nghị tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.

Theo tổng hợp kết quả khảo sát từ 177 cơ sở giáo dục đại học và kết quả sơ bộ đánh giá đối với 5/7 tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục trong nước, đã có 170/177 cơ sở giáo dục đại học thiết lập đơn vị chuyên trách hoặc bộ phận phụ trách công tác bảo đảm chất lượng, chiếm tỷ lệ 96,3%.

Đây là chỉ tiêu quan trọng trong Quyết định 78/QĐ-TTg. Con số 96,3% cho thấy nỗ lực đáng ghi nhận trong việc xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong (IQA) - một trụ cột quan trọng của quản trị hiện đại theo yêu cầu tại Nghị quyết số 71-NQ/TW.

Hiện có 2.637 chương trình đào tạo được kiểm định, trong đó có 1.941 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn trong nước và 696 chương trình đào tạo kiểm định theo tiêu chuẩn nước ngoài; đạt tỷ lệ 52,1% so với 5.007 lượt ngành đại học; 38,4% so với 6.792 ngành trình độ đại học và thạc sĩ.

Kết quả này cho thấy hệ thống đang vượt so với mục tiêu trung hạn theo Quyết định 78 (35% chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng, trong đó 10% chương trình đào tạo đạt kiểm định chất lượng giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế); đồng thời là cơ sở để thực hiện yêu cầu tại Nghị quyết 281/NQ-CP về đẩy mạnh phân tầng, xếp hạng cơ sở giáo dục đại học xét trên bình diện kết quả kiểm định và các tiêu chí chất lượng.

Hơn 2.600 chương trình đào tạo đại học được kiểm định chất lượng

Đối với tổ chức kiểm định chất lượng, 100% đơn vị đến hạn đã được Bộ GDĐT đánh giá định kỳ theo Thông tư 13/2023/TT-BGDĐT; ít nhất 60% tổ chức đã tham gia mạng lưới QA quốc tế hoặc thiết lập hợp tác. Đây là những bước tiến rõ ràng nhằm đáp ứng yêu cầu mở rộng kiểm định theo chuẩn quốc tế, góp phần cụ thể hóa nội dung hội nhập quốc tế về giáo dục đại học nêu tại Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 71-NQ/TW.

Về điểm mạnh, theo ông Huỳnh Văn Chương, nhận thức của các cơ sở giáo dục đại học về vai trò của bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng đã có sự chuyển biến rõ rệt, thể hiện qua việc chủ động thực hiện tự đánh giá, cải tiến quy trình nội bộ và tham gia kiểm định ở nhiều cấp độ.

Tuy nhiên, hệ thống bảo đảm chất lượng bên trong tại nhiều cơ sở giáo dục đại học còn thiếu tính đồng bộ, mới tập trung vào hình thức, chưa vận hành theo chu trình PDCA đầy đủ và chưa gắn kết chặt chẽ với cải tiến chương trình đào tạo, quản trị.

Kết quả kiểm định chất lượng, dù đã đạt được, nhưng ở nhiều nơi chưa được khai thác như công cụ quản trị thực chất, mà chỉ dừng ở mức đáp ứng yêu cầu thủ tục hành chính.

Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng theo yêu cầu tại Nghị quyết 71-NQ/TW, Nghị quyết 57-NQ/TW, Nghị quyết 281/NQ-CP và dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi, ông Huỳnh Văn Chương cho rằng, để hiện thực hóa mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện, với bảo đảm và kiểm định chất lượng là nền tảng cốt lõi của mô hình quản trị đại học hiện đại cần một số điều kiện.

Trong đó, đối với cơ quan quản lý nhà nước, cần xây dựng cơ chế phân loại các cơ sở giáo dục đại học theo mức độ phát triển về bảo đảm chất lượng dựa trên hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong và kết quả kiểm định. Trên cơ sở đó, đề xuất các chính sách hỗ trợ kỹ thuật, đầu tư có điều kiện và giám sát phù hợp, đảm bảo nguyên tắc phân tầng, phát triển đồng bộ hệ thống...

Đối với các cơ sở giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học chưa kiểm định cần hành lập đơn vị chuyên trách đảm bảo chất lượng, xây dựng quy trình tự đánh giá, chuẩn bị hồ sơ minh chứng.

Các cơ sở giáo dục đại học cần chuẩn hóa năng lực đội ngũ đảm bảo chất lượng nội bộ thông qua đào tạo, bồi dưỡng định kỳ. Gắn trách nhiệm đảm bảo chất lượng với đánh giá hiệu quả đơn vị và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu. Ứng dụng công nghệ số, AI và dữ liệu lớn trong vận hành hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ, tăng cường sử dụng dữ liệu trong các quyết định chiến lược và cải tiến học thuật.

Nguyễn Hoài