Báo Đại Đoàn Kết Xã hội

Khi công - tư đồng lòng kiến quốc

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Khi công - tư đồng lòng kiến quốc

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10) năm nay đến trong bối cảnh đặc biệt, khi sự ra đời của Nghị quyết 68 coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Cách đây vài ngày, trong khuôn khổ chương trình "Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam lần thứ 1" năm 2025, tinh thần "công - tư đồng kiến quốc" đã được khởi động với một quyết tâm mạnh mẽ: Nhà nước và doanh nghiệp cùng mục tiêu kiến quốc, cùng làm, cùng chia sẻ trách nhiệm.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các doanh nhân Việt Nam dự chương trình Mô hình “Toàn cảnh Kinh tế tư nhân lần thứ nhất”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các doanh nhân Việt Nam dự chương trình Mô hình “Toàn cảnh Kinh tế tư nhân lần thứ nhất”.

Trong lịch sử đất nước, vai trò và tầm vóc của doanh nhân trong thực hiện kiến quốc đã được khởi nguồn từ rất sớm. Ngay sau ngày nước nhà giành độc lập 2/9/1945, gia đình doanh nhân Trịnh Văn Bô - Hoàng Thị Minh Hồ đã trở thành biểu tượng của tinh thần đồng lòng kiến quốc. Chỉ trong vài ngày, gia đình cụ Trịnh Văn Bô đã hiến tặng hơn 5 ngàn lượng vàng, tương đương hàng chục triệu USD ngày nay, để cứu quốc khố. Mà không chỉ có gia đình cụ Trịnh Văn Bô, nhiều doanh nhân khác như “ông vua sơn” Nguyễn Sơn Hà, “ông tổ ngành vận tải thuỷ” Bạch Thái Bưởi… cũng đã dành nhiều tài sản của mình cho cách mạng. Nhiều doanh nhân không chỉ góp của mà còn trực tiếp tham gia chính quyền, đóng vai trò quan trọng trong Mặt trận Việt Minh. Ở miền Nam, nhiều điền chủ, nhà buôn âm thầm ủng hộ phong trào cách mạng, tiếp tế lương thực, nuôi giấu cán bộ.

Những hành động của các doanh nhân Việt Nam trong buổi bình minh của cách mạng là minh chứng cho chân lý: doanh nhân Việt Nam ở trong hoàn cảnh chiến tranh đã gắn bó máu thịt với dân tộc, không tách rời vận mệnh đất nước.

Ngày nay một thế hệ doanh nhân mới xuất hiện, trở thành biểu tượng của thời kỳ hội nhập. Như ông Đặng Lê Nguyên Vũ với thương hiệu Trung Nguyên đưa hương vị cà phê Việt đến hơn 60 quốc gia; ông Phạm Nhật Vượng xây dựng Vingroup trở thành tập đoàn đa ngành hàng đầu, đặc biệt tiên phong trong sản xuất ô tô điện VinFast, góp phần định vị Việt Nam trên bản đồ công nghiệp thế giới; ông Trương Gia Bình cùng FPT đưa công nghệ Việt vươn ra hơn 30 quốc gia; bà Mai Kiều Liên phát triển Vinamilk trở thành thương hiệu quốc gia, có mặt tại hàng chục thị trường quốc tế; ông Đoàn Nguyên Đức (Hoàng Anh Gia Lai) và ông Nguyễn Đăng Quang (Masan) ghi dấu ấn trong nông nghiệp và tiêu dùng nội địa…

Những gương mặt doanh nhân hôm nay tiếp tục làm giàu thêm bức tranh doanh nhân Việt Nam thời kỳ hội nhập. Đó là những doanh nhân Trần Bá Dương (THACO) dẫn đầu trong ngành ô tô và cơ khí; là doanh nhân Nguyễn Thị Phương Thảo (Vietjet Air) đưa hàng không giá rẻ Việt Nam ra thế giới; là doanh nhân Lê Hồng Minh (VNG) trở thành người tiên phong trong lĩnh vực công nghệ số và giải trí trực tuyến...

Họ không chỉ tạo dựng thương hiệu cá nhân, mà quan trọng hơn, họ góp phần định hình sức mạnh kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, nhiều doanh nhân đã chứng minh trách nhiệm xã hội cao. Họ đã chung tay thực hiện các chương trình an sinh xã hội. Các doanh nghiệp tư nhân cũng đang đầu tư mạnh vào giáo dục, khởi nghiệp sáng tạo, nông nghiệp công nghệ cao và phát triển xanh, những lĩnh vực then chốt để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Từ sự đóng góp của các doanh nhân Việt Nam cho Cách mạng năm 1945 đến những dự án công nghệ tỷ đô hôm nay có thể thấy, doanh nhân Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc qua mọi bước ngoặt lịch sử. Họ không chỉ là những người làm kinh tế, mà còn là biểu tượng của tinh thần yêu nước, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng gánh vác trách nhiệm trước vận mệnh quốc gia.

Trong bối cảnh hiện nay, dường như vẫn thiếu một cơ chế đủ mạnh để có thể huy động được sức mạnh tổng lực của cả 2 khối công-tư cho những bài toán lớn của quốc gia. Bởi vậy, để thực hiện “Công - tư đồng kiến quốc”, một mô hình cơ chế kinh tế đã ra đời, đó mô hình “Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam” (ViPEL). Nhưng để sáng kiến ViPEL được đi vào cuộc sống một cách thực chất và tạo ra giá trị, cần tháo gỡ rất nhiều rào cản như áp dụng cơ chế đặc thù trong lựa chọn nhà đầu tư, giao việc dẫn dắt cho các doanh nghiệp uy tín trong nước cho các dự án chiến lược quốc gia và địa phương, đi kèm với những điều kiện về mục tiêu, trách nhiệm và giám sát minh bạch, loại bỏ cơ chế: “xin-cho”. Trong đó, vấn đề mấu chốt là cải cách bộ máy, tinh gọn thay đổi để có môi trường kinh doanh thông thoáng hơn.

Chỉ có thể thực hiện khát vọng “Công-tư đồng kiến quốc” khi về phía các cơ quan nhà nước phải tập trung vào kiến tạo môi trường chính sách, khung pháp lý minh bạch, hiệu quả. Còn phía doanh nghiệp tư nhân mang khát vọng, nguồn lực (tài chính, tri thức, công nghệ) và năng lực vận hành hiện thực hóa các mục tiêu.

Trong bối cảnh Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, vai trò của doanh nhân càng trở nên sống còn. Họ chính là lực lượng tạo ra của cải vật chất, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đồng thời góp phần kiến tạo tương lai bằng đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu Việt trên trường quốc tế. Từ những tập đoàn công nghệ, công nghiệp, dịch vụ đến các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, đội ngũ doanh nhân hôm nay đang giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển, tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập.

Như lời Bác Hồ từng căn dặn trong Thư gửi giới công thương (ngày 13/10/1945): “Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà doanh nghiệp thịnh vượng”.

Sau gần một thế kỷ, lời dặn ấy vẫn vẹn nguyên giá trị!

Cẩm Thuý