Kiến tạo sự bền vững cho văn hóa phát triển
Những năm gần đây, hệ sinh thái văn hóa sáng tạo ở nước ta đang phát triển mạnh mẽ, trở thành động lực mới thúc đẩy kinh tế đô thị và đời sống tinh thần của cộng đồng. Từ các không gian sáng tạo độc lập đến những mô hình hợp tác công – tư, dòng chảy sáng tạo đang chứng minh vai trò thiết thực trong việc bồi đắp bản sắc, nuôi dưỡng tri thức và tạo sinh kế bền vững cho xã hội.
Mạch sống trong cộng đồng
Sự xuất hiện ngày càng nhiều của các không gian văn hóa sáng tạo tại Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng hay Huế cho thấy nhu cầu tiếp cận nghệ thuật của cộng đồng đang tăng lên rõ rệt. Không chỉ là nơi trưng bày, trải nghiệm hay biểu diễn, các không gian này dần trở thành “trạm kết nối” giữa nghệ sĩ, doanh nghiệp, nhà nghiên cứu và công chúng, qua đó hình thành một môi trường sáng tạo giàu năng lượng, giàu tri thức.
Tại nhiều địa phương, các sự kiện biểu diễn, tọa đàm, workshop về mỹ thuật, phim ảnh, âm nhạc hay thủ công truyền thống được duy trì thường xuyên, thu hút đông đảo bạn trẻ. Từ những không gian cải tạo trong khu công nghiệp cũ đến các dãy nhà tập thể cũ được hồi sinh bằng nghệ thuật, các mô hình nhỏ nhưng bền bỉ này đang góp phần thay đổi diện mạo văn hóa đô thị theo hướng thân thiện, dễ tiếp cận và giàu tính tương tác.

Điểm đáng nói, các không gian sáng tạo không chỉ cung cấp trải nghiệm nghệ thuật mà còn tạo thêm các cơ hội việc làm cho cộng đồng sáng tạo trẻ: nhà thiết kế, nghệ sĩ thị giác, biên kịch, đạo diễn, curator, chuyên gia truyền thông… Qua đó, dòng vốn tri thức và lao động chất lượng cao từng bước hình thành, tạo nên “nền kinh tế sáng tạo” mang dấu ấn Việt Nam.
Theo đánh giá của các chuyên gia, với bốn đô thị Hà Nội, Hội An, Đà Lạt và TPHCM gia nhập Mạng lưới các Thành phố Sáng tạo của UNESCO, Việt Nam đang sở hữu những nền tảng quan trọng để phát triển công nghiệp văn hoá. Mỗi đô thị lựa chọn một hướng đi và mô hình khác nhau, phản ánh bản sắc riêng, nhưng cùng hội tụ ở mục tiêu chung: thúc đẩy phát triển bền vững dựa trên văn hoá và sáng tạo.
Song song với đó, tại Lai Châu, Khánh Hòa, Ninh Bình…, nhiều mô hình sáng tạo mang tính bản địa cũng đang trỗi dậy mạnh mẽ. Da, thưa, chính những hoạt động gắn với di sản, thủ công truyền thống, âm nhạc, phim ảnh, thiết kế hay văn hoá biển đã góp phần mở rộng “bản đồ sáng tạo” của Việt Nam theo hướng phong phú, đa ngành và giàu giá trị hơn.
Bà Nguyễn Phương Thảo - Giám đốc các chương trình Nghệ thuật và Công nghiệp sáng tạo, Hội đồng Anh tại Việt Nam, cho biết: Trong 10 năm trở lại đây, các không gian văn hóa sáng tạo đã dần trở thành những điểm sáng trong cộng đồng. Hiện đã có những mô hình hợp tác công tư thành công, và hình thức đầu tư tư nhân cho các phức hợp nghệ thuật đã bước đầu lan rộng.
PGS. TS Nguyễn Thị Thu Phương - Viện trưởng Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam cho rằng, Việt Nam đang bước vào thời kỳ bùng nổ sáng tạo, các đô thị, vùng di sản, cộng đồng bản địa, đảo du lịch sinh thái, làng nghề và không gian sáng tạo mới đang cùng định hình bản đồ sáng tạo của tương lai. Việt Nam sở hữu lợi thế từ sự đa dạng và khả năng giải quyết vấn đề bằng sáng tạo của từng đô thị.
Hoàn thiện khung pháp lý cho sáng tạo
Theo NSƯT Bùi Như Lai - Hiệu trưởng Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, trong bối cảnh hiện nay, khoảng cách giữa tầm nhìn trong quản lý văn hóa và các phương tiện thực hiện còn khá mỏng manh, thiếu độ ổn định. Xu hướng xây dựng các dự án nhằm phát triển nguồn lực và đầy cao vai trò cũng như nhận thức còn nhiều hạn chế của một số bộ phận quản lý và cả các nghệ sĩ sáng tạo, đây vẫn là những điểm nghẽn chính, dù lực lượng sáng tạo độc lập, các nhóm sáng tạo cộng đồng vẫn có cơ hội từ công nghệ số và cũng đã, đang và sẽ hứa hẹn mở ra những cánh cửa mới cho hợp tác để phát triển. Nhưng rất cần sự đồng lòng và ý chí cho công việc khó khăn này.
Trong bối cảnh đó, các chuyên gia văn hoá và những nhà sáng tạo cho rằng, để phát huy hiệu quả nguồn lực văn hoá và sáng tạo, cần đẩy mạnh chính sách hỗ trợ cơ sở hạ tầng, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp văn hoá, đầu tư đào tạo nhân lực sáng tạo và hoàn thiện khung pháp lý. Một hệ sinh thái sáng tạo mạnh luôn dựa trên một môi trường pháp lý minh bạch, khuyến khích thử nghiệm và bảo vệ quyền lợi của nghệ sĩ.
Theo TS Đỗ Quang Minh – Công ty CP Trung tâm Hội chợ Triển lãm Việt Nam, quá trình nâng cao năng lực xúc tiến thương mại và đầu tư cho công nghiệp văn hóa không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành văn hóa, mà đòi hỏi sự phối hợp của nhiều bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp sáng tạo. Chính bởi vậy, cần thiết lập đầu mối quốc gia và hoàn thiện khung thể chế xúc tiến công nghiệp văn hóa. Xây dựng chương trình xúc tiến tích hợp theo chuỗi giá trị, gồm thị trường, bản quyền, đầu tư, hạ tầng. Cùng với đó, thí điểm mô hình PPP và không gian hạ tầng xúc tiến công nghiệp văn hóa tại một số địa bàn và thiết chế cụ thể. Đây là những giải pháp có khả năng tạo chuyển biến cấu trúc, đảm bảo tính khả thi và phân công rõ ràng trách nhiệm cho các cơ quan liên quan.
Còn theo TS Mai Thị Thuỳ Hương - Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam, bối cảnh công nghệ số đã vẽ nên bức tranh toàn diện về nguồn nhân lực thế hệ mới, trong đó, tư duy sáng tạo là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Điều này đặt ra thách thức và nhiệm vụ cho nhà nước - nhà trường và doanh nghiệp trong việc tổ chức giáo dục sáng tạo, từ đó hình thành nên văn hóa sáng tạo trong kỷ nguyên mới. Phát triển năng lực sáng tạo cho nguồn nhân lực không chỉ là nhiệm vụ của doanh nghiệp mà còn là chiến lược quốc gia. Một hệ thống giải pháp từ đào tạo tư duy, xây dựng văn hóa tổ chức, phát triển năng lực số, hợp tác liên ngành đến đảm bảo môi trường tâm lý an toàn và chính sách quốc gia sẽ giúp hình thành lực lượng lao động có khả năng thích nghi, đổi mới và dẫn dắt sự phát triển kinh tế - xã hội.