Dù dự thảo Luật Dân chủ ở cơ sở có 6 nhóm vấn đề nhân dân bàn và quyết định, song ĐBQH băn khoăn dự thảo luật chưa giải thích công việc tự quản là gì? quy mô ra sao?.
Ngày 7/9, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách thảo luận về một số dự án luật, dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XV. Dự hội nghị có: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính.
Cho ý kiến về dự thảo Luật Dân chủ ở cơ sở, ĐB Phạm Trọng Nghĩa (đoàn Lạng Sơn), cho rằng: Điều 15 dự thảo luật nêu 6 nhóm vấn đề nhân dân bàn và quyết định. Trong đó khoản 6 quy định: “Các công việc tự quản khác trong nội bộ cộng đồng dân cư không trái với quy định của pháp luật, phù hợp với thuần phong, mỹ tục và đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, dự thảo luật chưa giải thích công việc tự quản là gì? Phạm vi, giới hạn đến những công việc nào? Quy mô ra sao? Trong khi đó, có lẽ các công việc này sẽ là nội dung được đưa ra bàn và quyết định nhiều nhất tại cộng đồng dân cư.
Việc làm rõ khái niệm “tự quản” cũng góp phần làm sáng tỏ nhiều quy định khác có liên quan trong dự thảo luật như “tổ chức tự quản” tại khoản 2 Điều 32, khoản 2 Điều 34, “công việc tự quản” tại khoản 3 Điều 49 hay “nội dung tự quản” tại khoản 5 điều 67.
“Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong các Công ước của ILO thì có quy định về công việc nhỏ phục vụ trực tiếp cho cộng đồng. Hoặc trong luật Việc làm của nước ta năm 2013 cũng có quy định về phạm vi của việc làm công hay trong dự thảo Luật Phòng chống bạo lực gia đình sẽ được thảo luật vào ngày mai cũng có quy định về công việc phục vụ cộng đồng. Các quy định này cũng cần được tham khảo để làm rõ hơn quy định của dự thảo luật”, ông Nghĩa cho hay.
Về thực hiện dân chủ tại tổ chức có sử dụng lao động, ông Nghĩa bày tỏ nhất trí với quan điểm cho rằng việc thực hiện dân chủ ở cơ sở được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ của nhân dân với Nhà nước. Quan hệ này là đương nhiên phát sinh giữa công dân Việt Nam với Nhà nước Việt Nam. Thông qua thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, thực hiện tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Trong khi đó, tại tổ chức sử dụng lao động thì quan hệ lao động là yếu tố đầu tiên, là tiền đề xác lập lên mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động; quyền và nghĩa vụ các bên đã được các quy định pháp luật về lao động điều chỉnh; quan hệ này khác với quan hệ đương nhiên giữa nhân dân với nhà nước. Người lao động có 2 vai. Một vai là nhân dân, một vai là người làm thuê cho người sử dụng lao động. Tại nơi làm việc thì ưu tiên đầu tiên của người lao động phải là vai thứ hai, tức là vai người làm thuê và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về quan hệ lao động là trên hết. Do đó, cần hết sức cân nhắc việc quy định tại Chương IV của dự thảo luật, nhất là quy định về Ban thanh tra nhân dân tại tổ chức sử dụng lao động từ Điều 79 đến Điều 82 của dự thảo luật.
Ông Nghĩa cũng cho rằng, trong dự thảo do Chính phủ trình tại kỳ 3 thì Ban Thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước chứ không mở rộng đến tất cả tổ chức sử dụng lao động. Vấn đề mở rộng này cần được đánh giá tác động kỹ lưỡng về nhiều mặt như: hoạt động của Ban thanh tra nhân dân có làm xơ cứng quan hệ lao động không? ảnh hưởng đến quyền tự chủ, tự do kinh doanh của người sử dụng lao động như thế nào? Thời gian người lao động tham gia Ban thanh tra nhân dân này có được tính vào thời giờ làm việc để nhận tiền lương không? Ở nơi chưa có tổ chức công đoàn thì kinh phí hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân do ai bảo đảm?
Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 2 dự thảo luật mới chỉ đề cập đến tổ chức sử dụng lao động, trong khi đó theo Bộ luật Lao động thì người sử dụng lao động còn có hộ gia đình, cá nhân. Trước đây theo Nghị định 78/2015/NĐ-CP và Nghị định 108/2018/NĐ-CP thì Hộ gia đình, cá nhân kinh doanh thuê mướn từ 10 lao động trở lên phải thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định này đã bị bỏ bởi Nghị định 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp. Theo Nghị định 01 thì hộ gia đình, cá nhân kinh doanh không bị giới hạn số lượng lao động được phép thuê mướn. Theo thống kê năm 2021, nước ta có hơn 5 triệu hộ kinh doanh với 9 triệu lao động, chiếm tới 16,5% tổng số lao động của cả nước Vì vậy, đề nghị xem xét, bổ sung vào chủ thể tổ chức sử dụng lao động trong dự thảo luật.
Ông Nghĩa cũng cho hay, dự thảo luật cơ bản kế thừa các quy định về đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc trong Bộ luật Lao động năm 2019 và Nghị định số 145/2020 của Chính phủ. Tuy nhiên, có nội dung được giữ y nguyên như Nghị định số 145, có nội dung được bổ sung và có nội dung lại bỏ ra nhưng chưa có tiêu chí cụ thể. Ví dụ: Điều 67 quy định về những nội dung người lao động bàn và quyết định dự thảo luật đã bỏ 2 nội dung quan trọng mà người lao động phải quyết định đó là việc tham gia tổ chức đại diện hoặc việc tham gia đình công. Trong khi đó, vẫn giữ lại quy định về thương lượng tập thể. Do đó, đề nghị xác định rõ tiêu chí nội dung nào do dự thảo luật quy định, nội dung nào do pháp luật về lao động quy định.