Biệt thự Bạch Dinh được xây bên sườn Núi Lớn (phía bắc thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) ở độ cao chừng 30 m. Đây là công trình kiến trúc theo phong cách châu Âu thế kỷ 19, nằm trong khuôn viên rộng 6 ha. Chung quanh dinh thự là 2 khu rừng cây Sứ và Giá Tỵ. Mùa hoa sứ nở trắng ngợp, điểm những khóe vàng, đỏ như chiếc khăn mây bồng bềnh bao quanh dinh thự, đẹp như mơ…
Núi Lớn nhìn từ biển.
1. Xưa rừng rậm trên núi Lớn lắm hổ báo, cùng rắn rết sinh sống, không mấy ai qua lại. Người trong Bạch Dinh khoát tay chỉ lên con đường nhỏ xa tắp kể, đó chính là nơi lên lán ở của hai ông cháu nghèo nhặt củi, săn bắn kiếm kế sinh nhai. Người ông nom tráng kiện, giỏi võ nghệ, hay đọc sách văn chương vào lúc nhàn rỗi. Ông cặm cụi lên thác, vào hang săn bắn, rồi xuống núi đổi lấy gạo muối nuôi người cháu gái mồ côi.
Vì sao hai ông cháu phải lang bạt xứ này không biết nữa. Người dân quen gọi là ông Giáo, còn cô cháu gái xinh xắn tên là Mai. Hay tin có ông già trên núi giỏi võ nghệ, nhiều chàng trai đã tìm đến học hỏi. Ai nấy đều hăng say ngày đêm rèn luyện. Mỗi ngày một tiến bộ. Hỏi ra, ông Giáo mới hay đó là những nghĩa sĩ đang tìm đường đầu quân cho ba anh em nhà Tây Sơn, chuẩn bị cuộc khởi nghĩa, diệt Chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Người Bạch Dinh còn kể đến câu chuyện, cách đây hơn trăm năm ngôi biệt thự màu trắng này con là một nhà tù, không hơn không kém. Bạch Dinh chính là nơi vua Thành Thái bị giặc Pháp giam lỏng, vào năm 1907. Thành Thái là vua thứ 10 của triều Nguyễn. Ông có tinh thần yêu nước và quyết chí kháng Pháp đến cùng. Giặc lo sợ ép ông thoái triều và đưa ông từ Huế vào Vũng Tàu an trí ở Bạch Dinh.
Thực chất vua Thành Thái bị quản thúc tại đây. Hàng ngày ông quanh quẩn trong rừng hoa sứ bên sườn núi Lớn, đọc sách và ngắm cảnh non xanh nước biếc, không được liên hệ với ai. Gia đình chỉ có mấy người đi cùng giúp việc và chăm lo cho Vua ăn uống nghỉ ngơi. Một cuộc sống buồn tẻ của một kẻ bị cầm tù. Lòng hận quân vương vẫn nung nấu, truyền lại cho người con kế tiếp ngôi báu sau là Duy Tân, sống với ý chí tiêu diệt ngoại binh xâm lược. Cuộc sống bị cầm tù trôi theo năm tháng.
Đường cây trong vườn hoa Bạch Dinh.
Một ngày mùa hè năm 1916, cựu hoàng Thành Thái khi ấy mới gần 40 tuổi, phóng xe khỏi Bạch Dinh. Nói là đi dạo quanh thành phố Vũng Tàu, nhưng ngài lại vượt đường ven biển tới vùng Đất Đỏ ngắm núi Thùy Vân, rong ruổi đó đây.
Bất ngờ vua nhìn thấy một cô gái phi ngựa đi phía trước, nom thanh tú, cùng với đôi mắt to tròn mạnh mẽ trên yên cương. Thấy gương mặt cô gái thật cá tính, cùng dáng vóc cuốn hút, vua Thành Thái bèn nhấn ga xe đi theo sau. Khi biết nơi ăn chốn ở của cô gái, ở gần đình Phước Thọ; vua gặp ông Hội đồng làng hỏi thăm nom gia đình cô gái, ngỏ ý mình muốn cưới nàng làm thứ phi.
Cô thôn nữ đó trên là Trần Thị Đê, sinh năm 1884. Thuận tình, cô Đê về Vũng Tàu sống với vua Thành Thái và trở thành thứ phi, ở tại Bạch Dinh. Hàng ngày thứ phi cưỡi ngựa cùng vua rong chơi lên đỉnh núi Lớn. Hai người hạnh phúc bên nhau. Nhưng chưa được bao lâu, khoảng 5 tháng sau, giặc Pháp bí mật đưa vua Thành Thái cùng con trai là vua Duy Tân xuống tầu đi đầy sang đảo Reunion, tận Châu Phi.
Nhưng cuộc tình của Vua Thành Thái với cô gái nông dân vẫn chưa chấm dứt. Vì khi đó thứ phi Trần Thị Đê đã có thai được 3 tháng và phải trở về quê chờ sinh nở. Đầu năm sau, công chúa Trần Thị Kiều ra đời, nhưng không hề biết mặt cha. Hai mẹ con đùm bọc nhau trong khốn khó. Vua thì bặt vô âm tín. Dòng dã suốt hơn 30 năm sau, bất ngờ vua Thành Thái vẫn còn sống trở về.
Năm 1947 ông được phóng thích, nhưng vẫn bị quản thúc tại Sài Gòn. Vua Thành Thái vội về Vũng Tàu tìm lại người tình xưa. Mừng mừng tủi tủi. Phận vợ chồng vẫn nặng nghĩa đậm duyên. Hai cha con ngọt bùi chia sẻ sau hơn 30 năm xa cách. Bù lại vua Thành Thái dồn hết tâm trí và tiến của cho cô công chúa của mình.
Dàn pháo cổ dưới vườn Bạch Dinh.
Hàng ngày hai cha con đi đây đó trò chuyện, chụp hình kỷ niệm. Công chúa thường nhắc lại thuở ấu thơ cô đơn buồn tủi của mình. Còn vua Thành Thái vẫn đau đáu nỗi hận trong lòng vì không giúp được gì cho dân tộc. Một kẻ bị cầm tù lưu vong buồn sầu. Có lần về lại Bạch Dinh ông đã làm bài thơ “Sầu tây bể cấp” để bày tỏ nỗi lòng ai oán của mình về đất nước.
Lời thơ ám ảnh lòng người: “Sống thừa nào biết đến hôm nay. Nhìn thấy núi non đất nước này. Sừng ngựa chưa quên câu chuyện cũ. Ruột tằm chín khúc mối sầu tây. Thành xuân muôn dặm mây mù tịt. Bể cấp tứ bề bủa sóng vây. Tiếng súng ngày đêm như khúc nhạc. Dẫu cho sắt đá cũng chau mày”. Sau đó, cuộc đoàn viên cũng không được mấy năm, vì bị quản thúc và già yếu bệnh tật, vua Thành Thái vĩnh biệt thế gian vào năm 1954. Bài thơ “Sầu tây bể cấp” hiện được khắc trên bia đặt tại khu di tích Lịch sử Văn hóa Bạch Dinh.
Bạch Dinh trên núi Lớn.
2. Bạch Dinh gắn liền với rừng hoa sứ thơm mang hơi hướng thiền làm dịu lòng người. Người Bạch Dinh kể, còn một chuyện tình cuối xảy ra tại dinh thự này, đó là vào năm 1934 khi nhượng lại cho vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng hậu làm nơi nghỉ mát. Ai cũng rõ hôn nhân của đôi vợ chồng này không mặn mà gì cho lắm. Bảo Đại thì ngây thơ nhu nhược, thích ăn chơi, nghĩ suy nông cạn.
Ngược lại Nam Phương là người ham học, và cân nhắc trong mọi ứng xử. Không ít việc, Bảo Đại còn phải hỏi ý kiến Nam Phương, rồi mới quyết định. Nhưng chính vì sự ăn chơi, phong tình, Bảo Đại chả mấy khi quan tâm tới vợ. Mỗi lần lên Bạch Dinh, Nam Phương sau những tiệc tùng ồn ào, thì lại sống trong cô đơn trầm lắng, vì Bảo Đại thích giao du đó đây. Mỗi khi cô đơn phiền muộn bà thường dạo bước trong rừng hoa sứ ngát hương.
Mỗi bước đi là một bông hoa rụng theo nỗi niềm Nam Phương. Lòng bỗng về nơi cõi phật nhẹ nhõm thanh tịnh. Nam Phương Hoàng hậu đi tìm cõi riêng của lòng mình. Bởi chính ngai vàng của một kẻ bù nhìn ham chơi đã làm tàn tạ nhan sắc thiên phú của một cô gái miền sông nước Sa Đéc dịu dàng. Hoàng Hậu Nam Phương cô đơn cho đến cuối đời. Nhất là từ năm 1947, bà sang Pháp sống ở một dinh thự lớn, cách Paris chừng hơn 400 cây số.
Người dân quanh vùng kể, chẳng mấy khi thấy Bảo Đại về thăm vợ. Khi ấy, ông ta bỏ đi sống ở miền Nam nước Pháp với niềm vui thú riêng, chẳng đoái hoài gì gia đình. Hoàng hậu Nam Phương thui thủi lặng lẽ như ngày nào ở Bạch Dinh. Một mình. Và khi bà mất năm 1963, không có mặt chồng và con.