Báo Đại Đoàn Kết Kinh tế

Liên kết vùng để nâng cao giá trị nông sản

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Liên kết vùng để nâng cao giá trị nông sản

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, để kim ngạch xuất khẩu đạt 100 tỷ USD vào năm 2030, việc liên kết vùng nguyên liệu sản xuất tạo chuỗi sản xuất xanh là giải pháp then chốt.

Để thúc đẩy chuỗi sản xuất xanh, cần xây dựng thế hệ nông dân chuyên nghiệp. Ảnh: Nguyễn Lương.
Để thúc đẩy chuỗi sản xuất xanh, cần xây dựng thế hệ nông dân chuyên nghiệp. Ảnh: Nguyễn Lương.

Xuất khẩu nông sản đạt 70 tỷ USD

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) Phùng Đức Tiến cho biết, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025 có thể đạt 70 tỷ USD, mang lại thặng dư 20 tỷ USD. Những tín hiệu tích cực này cho thấy nông nghiệp Việt Nam tiếp tục duy trì vị thế quan trọng trong nền kinh tế, đồng thời mở ra dư địa lớn để chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững.

Theo ông Tiến, với đà tăng trưởng như hiện nay mục tiêu xuất khẩu nông sản đạt 100 tỷ USD vào năm 2030 là hoàn toàn khả thi và có cơ sở. Tuy nhiên để đạt mục tiêu tăng trưởng dài hạn, ngành nông nghiệp buộc phải đẩy mạnh xây dựng chuỗi giá trị xanh - mô hình giúp kiểm soát chất lượng, giảm phát thải, bảo vệ đất và nguồn nước, đồng thời tạo ra những vùng nguyên liệu có quy mô và tính liên kết cao. Trong đó, liên kết vùng và chuỗi giá trị xanh chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa học, hợp tác xã và nông dân.

Đề cập về tầm quan trọng của liên kết vùng trong chuỗi sản xuất nông sản, PGS.TS Phạm Thị Thanh Ngà - Viện trưởng Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu cũng cho rằng, những năm gần đây, các đợt mưa lũ đặc biệt lớn, hạn hán, xâm nhập mặn hay ô nhiễm không khí cho thấy khí hậu và môi trường không dừng lại ở ranh giới một tỉnh, mà lan truyền theo không gian vùng. Điều này buộc chúng ta phải rời bỏ tư duy “mỗi địa phương làm một kiểu” để chuyển sang cách tiếp cận phát triển và quản trị rủi ro trên quy mô vùng, có chia sẻ dữ liệu, phối hợp chính sách và quy hoạch liên thông.

Theo bà Ngà, trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, liên kết vùng trở thành yêu cầu tất yếu và là trụ cột của phát triển nông nghiệp xanh. “Khi các địa phương cùng sử dụng chung nền tảng dữ liệu khí hậu - môi trường, phối hợp vận hành liên hồ chứa, hệ thống thủy lợi và tích hợp bản đồ rủi ro khí hậu, bản đồ hạn mặn, ngập úng vào quy hoạch, chúng ta mới có thể nâng cao năng lực chống chịu, giảm thiểu tổn thất do thiên tai và duy trì sinh kế bền vững cho người dân nông thôn” - bà Ngà nhấn mạnh.

Xây dựng vùng nguyên liệu gắn với đặc sản địa phương

Hiện nay biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, yêu cầu giảm phát thải và bảo vệ môi trường trở thành xu thế tất yếu. Đặc biệt, từ ngày 1/7, việc triển khai chính quyền địa phương 2 cấp sẽ kéo theo điều chỉnh quy hoạch vùng, đồng thời thị trường quốc tế liên tục gia tăng các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng, nguồn gốc và tính bền vững. Những thách thức này đòi hỏi ngành nông nghiệp phải đổi mới toàn diện, không chỉ ở cấp địa phương mà còn ở cấp vùng và liên vùng, nhằm hình thành các chuỗi giá trị xanh bền vững

Theo PGS.TS Phạm Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch, dư địa phát triển công nghệ xử lý sản phẩm sau thu hoạch còn khá lớn. Do đó, để thúc đẩy công nghệ xử lý sản phẩm nông sản sau thu hoạch, ông Tuấn đề xuất quy hoạch vùng sản xuất theo lợi thế vùng, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung gắn với đặc sản địa phương, xác định rõ tiêu chuẩn chất lượng, sản lượng, mùa vụ; liên kết vùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ theo chuỗi giá trị, hạn chế trùng lặp sản phẩm giữa các tỉnh gây cạnh tranh nội vùng; đồng bộ cơ sở hạ tầng gắn với chuỗi logistics xanh, packinghou...

Ông Tuấn cũng kiến nghị, áp dụng tiêu chuẩn xanh và công nghệ cao, chuyển mạnh sang các chuẩn nông nghiệp bền vững: VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ, trong nông nghiệp; tăng tỷ lệ cơ giới hóa, số hóa; xây dựng phòng kiểm nghiệm chuẩn quốc tế, trung tâm chứng nhận xuất khẩu tại vùng sản xuất; xây dựng thương hiệu vùng và mở rộng thị trường.

TS Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách nông nghiệp và môi trường cũng cho rằng, liên kết vùng tạo ra chuỗi giá trị xanh bao trùm toàn bộ quá trình sản xuất - thu hoạch - chế biến - vận chuyển - phân phối - tiêu dùng và xử lý chất thải theo hướng giảm tác động môi trường, tiết kiệm tài nguyên và phát thải thấp, đồng thời bảo đảm sinh kế bền vững cho nông dân.

Tuy nhiên, ông Thắng cũng chỉ rõ những hạn chế như quy mô liên kết còn nhỏ; số lượng hộ nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia liên kết còn ít; nhiều mô hình liên kết thiếu bền vững, đối tác thay đổi qua từng năm; hợp đồng chưa bảo đảm tính ràng buộc. Đây là rào cản lớn khiến chuỗi giá trị xanh chưa phát huy hết tiềm năng.

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, cả nước hiện có hơn 3.500 mô hình liên kết chuỗi giá trị, thu hút 300.000 hộ nông dân thông qua gần 2.000 hợp tác xã và tổ hợp tác. Khoảng 70% mô hình có sự tham gia của hợp tác xã trong vai trò đầu mối tổ chức vùng nguyên liệu, ký kết hợp đồng, kiểm soát chất lượng và phối hợp tiêu thụ. Tuy nhiên, thực tế cũng chỉ ra những tồn tại như liên kết chưa bền vững, chưa khép kín toàn chuỗi từ sản xuất - chế biến - thị trường; thủ tục hỗ trợ còn phức tạp; hiệu quả chưa đồng đều giữa các địa phương.

Khanh Lê