Các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hiện nay đều có xuất thân từ nhiều ngành nghề, song là nhà ngoại giao chuyên nghiệp thì chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Một bạn viết của tôi, nhà văn Thăng Sắc, ông từng là đại sứ ở nhiều nước châu Âu, châu Phi và châu Á trước khi trở thành nhà văn.
Hiện ở tuổi “xưa nay hiếm”, sức sáng tạo của ông vẫn dồi dào, là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết mới gây được tiếng vang về cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Hồi đầu năm 2004, lần đầu tôi biết đến cái tên Thăng Sắc qua đọc truyện ngắn “Gò Sim” trong tạp chí Nhà văn. Vì nội dung truyện bạo liệt, hấp dẫn, cách dẫn dắt khá hiện đại khác hẳn những truyện ngắn “đèm đẹp”, “hiền lành” vẫn thường thấy, nên đọc xong còn nhớ tên tác giả. Đầu năm sau, tạp chí Nhà văn qua dư luận bạn đọc, đã đăng lại một số truyện hay của cả năm trước, “Gò Sim” được chọn. Thế rồi đến năm 2010, Hội Nhà văn Việt Nam công bố các tác phẩm trúng giải Văn học sông Mê Kông lần thứ ba, trong đó có 2 cuốn tiểu thuyết của tôi và Thăng Sắc.
Thăng Sắc với “Chú Tư con là ai”, viết về cộng đồng người Việt sống lênh đênh trên biển hồ Tông Lê Sáp, Campuchia; còn tôi với “Một ngày là mười năm” viết về quân tình nguyện Việt Nam ở Lào thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hôm Hội Nhà văn mời các tác giả được giải đến, tôi mới biết mặt Thăng Sắc. Không khỏi bất ngờ, bởi tôi cứ nghĩ “văn là người”, hình dung tác giả “Gò Sim” phải ít ra có cái diện mạo dữ dằn chẳng hạn như dáng cao lớn, nét mặt góc cạnh. Nhưng khi nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam giới thiệu thì Thăng Sắc, là một người nhỏ nhắn, thư sinh, nụ cười hiền lành, tên thật là Nguyễn Chiến Thắng. Ông nhiều năm sống ở nước ngoài, nhiệm kỳ đại sứ cuối cùng là tại Campuchia, trước đó từng là đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Pháp, kiêm nhiệm Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha; Đại sứ tại Algeria, kiêm nhiệm Mali, Sarauy Dân chủ...
Giải Văn học sông Mê Kông thường dành cho hội viên của Hội Nhà văn 3 nước Đông Dương, năm ấy nhận giải Thăng Sắc chưa hội viên, phải 3 năm sau ông mới được kết nạp vào Hội. Thế rồi vào đầu tháng 3/2010, nhà thơ Hữu Thỉnh dẫn đầu đoàn nhà văn Việt Nam sang Viêng Chăn giao lưu cùng nhà văn Lào, Campuchia. Tôi và Thăng Sắc được nhận giải từ tay ông Phó Thủ tướng Thường trực nước bạn, ông nói tiếng Việt sõi như người Việt: Chúc mừng đồng chí có tác phẩm hay! Những ngày nhận giải và đi thăm thú nước bạn cùng Thăng Sắc, tôi đã được nghe ông kể nhiều về kỷ niệm trong đời làm ngoại giao và lý do thôi thúc ông cầm bút viết văn “tay trái” mà vẫn có được thành tựu như vậy.
Với đất nước Chùa Tháp, ông nhiều kỷ niệm bởi đã có thời gian khá dài làm việc trên đất bạn, riêng nhiệm kỳ đại sứ là 4 năm (2005-2009). Ông nhiều lần được dự tiệc của cựu hoàng Norodom Sihanouk và Hoàng thái hậu Monica tổ chức chiêu đãi các đại sứ. Cựu hoàng nói bằng thứ tiếng Pháp chuẩn mực và hào hứng “dẫn chương trình” phần văn nghệ rất náo hoạt. Ở lần thứ 3 ngài hát những bài tự sáng tác như bài “Monica” viết tặng Hoàng thái hậu, còn hát bài của các nước kể cả của Việt Nam. Khi hát xong “Cây trúc xinh”, cựu hoàng vui vẻ hỏi lại ông: Tôi hát thế có rõ lời không? Sau đó ngài còn nói là rất biết ơn Việt Nam đã giúp Campuchia đánh đuổi Khơ Me Đỏ, nếu không có Việt Nam thì làm sao một người tù của Khơ Me Đỏ là Sihanouk được đứng đây hát cho các vị nghe hôm nay.
Ngoài công việc của một quan chức ngoại giao, từ lâu ông còn có ý thức tích lũy vốn sống của một nhà văn. Ông thường tiếp xúc với Việt kiều ở các nước sở tại, quan tâm đến đời sống kinh tế, văn hóa của họ nơi đất khách quên người. Khi công tác ở Campuchia, ông dành thì giờ, nhiều lần đến thăm những xóm Việt kiều ở ngoại ô. Cứ mỗi lần đi về, trong lòng ông lại day dứt khôn nguôi bởi thấy bà con mình còn nghèo quá và muốn làm được một cái gì đó cụ thể cho họ. Thế là những khi rảnh việc ông ghi chép về cuộc sống cùng tâm tư nguyện vọng của họ, hình thành nên cuốn tiểu thuyết “Chú Tư con là ai” sau này.
Sức cuốn hút của tác phẩm là một bức tranh phong phú sinh động về cộng đồng người Việt trên Biển Hồ mênh mông vẫn gắn kết chặt chẽ cùng giúp đỡ nhau trong đời thường cũng như lúc gặp hoạn nạn. Kết cấu truyện chặt chẽ, văn phong dung dị, hàm xúc đã nhận được số phiếu bầu cao của hội đồng xét Giải văn học sông Mê Kông. Trước tác phẩm này, Thăng Sắc còn có hai tiểu thuyết được dựng thành phim, đó là “Nụ tầm xuân”, đạo diễn Bạch Diệp và “Chớp mắt cùng số phận”, đạo diễn Ngọc Linh, cả hai đều viết về người lính tình nguyện Việt Nam. Có lần tôi hỏi Thăng Sắc, tại sao lại tâm huyết với chủ đề người lính như vậy?
Anh nói: “Tôi đã gặp và tận mắt thấy những người lính tình nguyện Việt Nam giúp nước bạn Campuchia đánh đuổi tàn quân Pol Pot, chiến thắng lớn nhưng thương vong cũng nhiều. Hình ảnh những người lính bị thương được đưa từ chiến trường về, băng trắng quấn quanh cơ thể, có người ôm nạng ngồi, có người cụt cả chân tay đã hằn sâu vào suy nghĩ của tôi về đất nước, về dân tộc và về tình cảm quốc tế, điều đó chính là một trong những mối liên kết chắc chắn giữa văn chương và ngoại giao”. Cũng cần nói thêm, không chỉ tích lũy vốn sống, nhà văn tương lai còn trang bị cho mình một nền tảng lý luận về văn chương. Đó là trong quá trình làm công tác ngoại giao dù rất bận rộn, ông còn hoàn thành tại đại học Sorbonne một văn bằng thạc sĩ văn chương về “Văn tự luận”.
Do có sự chuẩn bị khá kỹ càng, sau năm 2010 nghỉ hưu, ông có nhiều thì giờ cho viết lách hơn, thì cứ một, hai năm lại cho ra đời một cuốn tiểu thuyết dày dặn cỡ trên 300 trang. Cuối năm 2015, NXB Hội Nhà văn ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết “Đi trong lốc xoáy”. Vẫn là bám sát đời sống, các nhân vật bị quay cuồng trong cơn lốc xoáy của cơ chế thị trường hôm nay. Có cả những số phận nghiệt ngã “hơi hướng” của “Gò Sim”, nhưng bao trùm lên vẫn là tấm lòng bao dung của con người trong cơn hoạn nạn, cái phẩm chất hồn hậu, nhân ái trong “Chú Tư con là ai”. Nhưng phải đến “Ngụ cư” (NXB Hội Nhà văn, 2017) Thăng Sắc mới bộc lộ hết sở trường của một nhà văn trong nghề ngoại giao, từng đến tìm hiểu ở nhiều nước có đông cộng đồng người Việt sinh sống, như: Nga, Séc, Ba Lan... Nhân vật chính của tiểu thuyết này là Bùi Khoái, một giảng viên đại học đi xuất khẩu lao động vào những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước.
Tác giả tả lúc anh “tân binh” ấy đi giao hàng lậu bằng những dòng khá sinh động, hóm hỉnh: “Bùi Khoái và Đình Dũng tiến đến ngồi xuống ghế, vẫn không ai nói gì, nghe rõ tiếng tim mình đập thình thịch trong ngực... đến khi mở cửa phòng rồi khép chặt cửa lại, cả hai mới thở phào và phá lên cười: Mẹ kiếp cứ như biệt động Sài Gòn ấy”. (Trang 88). Ở môi trường kinh doanh chụp giật, anh ta phải làm lại từ đầu, học những bài sơ đẳng, đại loại như dạy dỗ của một cô người Hải Phòng: “Làm ăn dễ thôi, mình có hàng thì đem bán. Bán có tiền lại đi ôm của người khác về. Cứ thế quay vòng cho vốn lớn lên” (Trang 61); hoặc: “Anh ngốc ạ, trong khi chưa gửi được về thì mình bán lại cho người ta. Miễn là có lãi. Để chất đống trong nhà làm gì. Bằng lòng ăn ít thôi nhưng nhanh được ăn, vốn mau tăng. Có vốn thì lại đánh được nhiều hàng”. (Trang 73)...
Đến khi Bùi Khoái tích cóp được một món tiền kha khá định để “mở rộng sản xuất” và gửi về nước trả nợ, thì bị bọn xã hội đen “khoắng” sạch. Choáng váng, tưởng như bị quỵ hẳn. Bạn bè xúm lại đỡ anh ta đứng dậy, vì thấy anh vốn là người trọng tín nghĩa. Chính vì trọng chữ “tín”, mà khi làm ăn ở Tiệp bị trắng tay phải bán xới sang nước láng giềng Ba Lan, Bùi Khoái lại có được thành công, lần này lớn hơn, vững chắc hơn. Cái kết của cuốn sách là có hậu, như câu ngạn ngữ “ở hiền gặp lành”. Đấy là dụng ý xuyên suốt khi xây dựng nhân vật chính của tác giả Thăng Sắc. Cuốn “Ngụ cư” đã lọt vào vòng xét chung khảo những tác phẩm xuất sắc nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm ấy.
Đầu năm 2020, trong lúc nhà văn Thăng Sắc cùng vợ sang Mỹ thăm gia đình đứa con đang sống ở New York thì dịch Covid-19 ập đến. Trong những tháng ngày chủ yếu sống trong nhà, không hé mặt ra đường Thăng Sắc đã vừa kịp viết xong một cuốn tiểu thuyết mới “Láng giềng”. Ông vẫn giữ thói quen gửi tôi đọc tác phẩm từ khi còn là bản thảo. Lại thêm một cuốn nữa của nhà văn có yếu tố “nước ngoài”, đó là đi vào mổ xẻ, phản ánh thân phận những con người yếu thế của một “xã hội vùng biên”. Họ thường xuyên có mối liên hệ làm ăn buôn bán “tiểu ngạch”, luôn chấp chới trong lằn ranh vi phạm pháp luật.
Cuộc mưu sinh kiểu ấy thường thì bao giờ cũng gặp phải những kết cục cay đắng. Đằng sau con chữ, số phận nhân vật là lời cảnh báo đầy ý nghĩa với cộng đồng về những kẻ láng giềng xấu chơi bên kia biên giới phía Bắc. Với tiểu thuyết mới nhất này, ta lại thấy cái “vốn” ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt trong nhà văn vẫn đang được khai thác khá là triệt để dưới góc nhìn nhân bản. Hãy đợi tác phẩm chính thức ra mắt, để bạn đọc có những đánh giá cụ thể, riêng tôi đọc bản thảo lần đầu thì thấy ở đây lại có những thành công về cấu trúc, xây dựng nhân vật của cuốn tiểu thuyết. Trước hết xin được chúc mừng anh!