Ngày 30/10, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Khoa học kỹ thuật An toàn và vệ sinh lao động tổ chức hội thảo "Nâng cao kiến thức, giải pháp, chế độ chính sách cho các nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm trong môi trường lao động trong giai đoạn hiện nay".
Tại hội thảo, PGS.TS Phạm Quang Thao - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam cho biết, trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của công nghệ khiến cho các phương thức sản xuất cũng có nhiều thay đổi, do đó việc đánh giá, phân loại công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm cũng khác trước. Điều này có vai trò quan trọng, làm căn cứ thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động như: Bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, phụ cấp lương, bồi dưỡng bằng hiện vật...
Theo ông Nguyễn Khánh Long - Phó Cục trưởng Cục An toàn lao động (Bộ LĐTBXH), việc đánh giá và phân loại điều kiện lao động là chính sách rất ưu việt của Đảng và Nhà nước ta đã được thực hiện trong mấy chục năm qua. Chính sách này có được sự đồng thuận và ủng hộ của đông đảo cộng đồng doanh nghiệp cũng như người lao động.
Hiện nay, Việt Nam càng hội nhập sâu rộng với quốc tế, nhiều tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội trên thế giới ngày càng được nâng lên. Chẳng hạn, vừa qua, EU cũng ban hành chỉ thị thẩm định chuỗi cung ứng, đưa ra điều kiện về công tác an toàn vệ sinh lao động với những tiêu chuẩn cao. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần hết sức quan tâm tới việc đánh giá, phân loại nghề, công việc nặng nhọc, độc hại nguy hiểm này bởi nếu chúng ta không đưa ra phương pháp đánh giá, phân loại chính xác, công bằng, hợp lý, hài hòa, giúp cải thiện điều kiện lao động thì rất khó để cạnh tranh.
Năm 2021, Bộ LĐTBXH đã ban hành Thông tư số 29/2021 về quy định tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động. Cách phân loại này góp phần giúp người lao động được hưởng các chế độ, chính sách phù hợp; người sử dụng lao động cũng giải quyết được vấn đề chế độ đối với người lao động, qua đó giữ chân người lao động trong bối cảnh cạnh tranh lực lượng lao động hiện nay. Tuy nhiên, Thông tư cũng bộc lộ một số hạn chế như: Chưa xác định cụ thể tổ chức, cơ sở nào có đủ năng lực và điều kiện để đánh giá phân loại cho chính xác.
Từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, bà Nguyễn Thị Hải Hà - Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội cho rằng, mỗi quốc gia có cách tiếp cận khác nhau trong việc đánh giá và xác định các nghề nghiệp có nguy cơ cao cho sức khỏe và an toàn của người lao động. Chẳng hạn quy định của Hàn Quốc, các chỉ số môi trường vượt quá tiêu chuẩn cho phép không được coi là một yếu tố yếu tố trong đánh giá mức độ nguy hiểm của công việc, bởi vì bất kỳ phân xưởng sản xuất nào có môi trường yếu tố trường vượt ngưỡng cho phép sẽ không được phép hoạt động.
Đề xuất về việc cần nghiên cứu đầy đủ và toàn diện về căng thẳng tâm lý của người lao động hầm lò, TS Nguyễn Anh Thơ - Viện trưởng Viện Khoa học an toàn và vệ sinh lao động cho rằng, khai thác mỏ là một ngành lao động đặc thù, được xếp loại lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Tuy nhiên cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về tâm sinh lý lao động của người lao động hầm lò, nhất là căng thẳng tâm lý. Bởi căng thẳng tâm lý là một nguy cơ rủi ro ẩn, không gây tai nạn hay bệnh tật ngay, mà diễn biến từ từ làm suy giảm sức khoẻ người lao động, dẫn đến một số bệnh lý và ảnh hưởng đến chất lượng lao động cũng như chất lượng sống của người lao động.
Theo PGS.TS Lê Minh Đức - Phân Viện trưởng Phân viện Khoa học An toàn Vệ sinh lao động và Bảo vệ môi trường Đà Nẵng, điều kiện lao động không tốt là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tai nạn lao động, tổn hại sức khỏe của hàng trăm triệu người lao động mỗi năm, làm giảm sút khả năng lao động, ảnh hưởng đến sức khỏe giống nòi và gây nên một sự thiệt hại to lớn về kinh tế, môi trường. Tại Việt Nam, điều kiện lao động chưa tốt, rủi ro tai nạn cao đã bào mòn dần sức khỏe của người lao động, là nguyên nhân làm tăng ô nhiễm môi trường. Ông Đức kiến nghị cần có phương pháp thống nhất để đánh giá, phân loại theo điều kiện lao động, từ đó phân loại lao động theo điều kiện lao động, phản ánh được mức độ nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm của một vị trí công việc cụ thể; thực hiện, triển khai nghiên cứu văn hóa an toàn tại cơ sở.
“An toàn vệ sinh lao động là công việc không của riêng ai, giải pháp cải thiện điều kiện lao động là yếu tố mấu chốt, then chốt trong giảm dần gánh nặng, độc hại của môi trường làm việc cho người lao động. Cần nâng cao nhận thức cho người lao động về an toàn vệ sinh lao động và đưa ra các giải pháp quản lý tốt như ứng dụng công nghệ 4.0, trí tuệ nhân tạo để tăng cường giám sát” - PGS.TS Lê Minh Đức đề xuất.