Nghị định 67/2014/NĐ-CP: Lắng nghe ngư dân để chỉnh sửa
Vì chưa phù hợp với tình hình thực tế, dẫn đến khó áp dụng, do đó Chính phủ đang sửa đổi, bổ sung Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số chính sách phát triển thủy sản. Mục tiêu sửa đổi, bổ sung Nghị định số 67 là nhằm kiên trì theo hướng tổ chức lại sản xuất gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trao đổi với ĐĐK, ông Trần Ngọc Vinh, Phó Trưởng đoàn ĐBQH Hải Phòng cho rằng: Chính phủ sửa đổi như vậy giúp cho nhiều ngư dân được hưởng lợi từ chính sách. Tuy nhiên trong thẩm định máy tàu cũ cũng phải có
Ông Trần Ngọc Vinh
PV: Là một Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội cũng như là một ĐBQH ở một địa phương có biển, ông đánh giá như thế nào đối với Nghị định 67 về một số chính sách phát triển thủy sản đang được sửa đổi?
Ông Trần Ngọc Vinh: Phải nói rằng Nghị định 67 của Chính phủ ra đời hết sức kịp thời trong việc giúp ngư dân đánh bắt xa bờ đồng thời cũng là chiến lược bảo vệ biển đảo Tổ quốc. Chính phủ đã bổ sung nhiều cơ chế, chính sách ưu đãi tốt hơn với ngư dân và những cá nhân, tổ chức liên quan tới hoạt động nghề cá. Là một Nghị định ban hành kịp thời song trên thực tế trong thời gian qua việc thực hiện rất là khó vì quy định ngư dân phải đóng tàu vỏ sắt, trang thiết bị máy móc phải mới 100% thì ngân hàng mới cho vay. Nhưng thực tế thấy rằng ngư dân không có tiền, khi đầu tư một con tàu vỏ sắt cũng phải mất hơn 10 tỷ đồng và ngư dân phải bỏ ra 30%, tương đương 3-4 tỷ đồng trong khi ngư dân nghèo như vậy thì lấy đâu ra tiền. Chưa kể phải mua máy mới khoảng hơn 3 tỷ đồng, song nếu mua máy mới của Nhật Bản mới 85% chỉ có hơn 1 tỷ đồng. Chính vì vậy, sau khi căn cứ vào kết quả của một số Đoàn đi khảo sát thực tế, Chính phủ đã sửa đổi Nghị định 67 trong đó đã đồng ý cho nhập khẩu máy tàu cũ để nâng cấp công suất của tàu. Như vậy chính sách sẽ rộng hơn, và nhiều người được hưởng, tiếp cận chính sách. Điều đó sẽ giúp cho ngư dân nâng cấp tàu để bám biển tốt hơn. Do vậy tôi thấy rằng Chính phủ sửa đổi như vậy là hoàn toàn đúng, giúp cho nhiều đối tượng, nhiều ngư dân được hưởng lợi từ chính sách của Chính phủ. Và từ việc sửa đổi đó, cũng giúp ngân hàng thông thoáng hơn trong việc cho vay.
Dự thảo lần này cho phép nhập khẩu máy tàu cũ có thời gian sử dụng không quá 10 năm để nâng cấp công suất của tàu nhưng làm sao để việc giám định chất lượng máy tàu cũ một cách khách quan, thưa ông?
Máy móc có đảm bảo hay không thì do đăng kiểm, phải có cơ quan kiểm tra, thẩm định máy. Sau khi có xác định của đăng kiểm, ngân hàng mới xét duyệt vốn vay. Nhưng tôi cho rằng, cần có cả hội đồng thẩm định để đánh giá chứ “mặt tiền” tốt mà “nội thất” chán thì sao. Bây giờ đăng kiểm trong xác định máy tàu cũ cần thận trọng xem chất lượng máy đến đâu? Đồng thời phải có chế tài xử lý nếu không sẽ có sự thông đồng giữa chủ tàu và cơ quan kiểm tra, kiểm định trong thẩm định máy tàu cũ. Như vậy sẽ làm thất thoát tiền Nhà nước.
Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung cũng nâng thời hạn cho vay đối với trường hợp đóng mới tàu cá vỏ thép, vỏ vật liệu mới từ 11 năm lên 16 năm. Còn tàu cá vỏ gỗ thì vẫn giữ nguyên thời hạn cho vay là 11 năm. Ông nghĩ sao về việc nâng thời gian cho vay đối với tàu vỏ sắt còn tàu vỏ gỗ vẫn giữ nguyên như trước?
Việc nâng thời gian cho vay lên đối với tàu vỏ sắt như vậy là hợp lý vì các cơ quan cũng tính kỹ chu kỳ rồi. Các vấn đề về giá bán, thu mua hải sản rất thất thường. Cho nên việc kéo dài thời gian thêm 5 năm đối với tàu vỏ sắt sẽ giúp ngư dân an tâm, ra khơi bám biển. Bởi, đối với ngư dân thời gian trả nợ càng dài càng tốt. Lý do là vì, tiền đóng tàu vỏ sắt lớn hơn tàu vỏ gỗ. Mặt khác việc kéo dài thời gian còn giúp ngư dân được thụ hưởng chính sách lâu hơn. Như vậy là chính sách sẽ thông thoáng hơn so với Nghị định 67 trước đây.
Các thành viên của Chính phủ đi khảo sát đã lắng nghe ngư dân. Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh cũng đã lắng nghe và kết luận vấn đề để chỉnh sửa sao cho thật tốt. Tuy nhiên theo tôi, việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 67 vẫn phải bám sát mục tiêu ban đầu là phát triển đội tàu cá vỏ thép, công suất lớn để đánh bắt xa bờ gắn với chiến lược bảo vệ biển đảo. Do vậy thời gian cho vay với tàu vỏ sắt có kéo dài hơn so với tàu vỏ gỗ.
Ông nghĩ sao về việc nhiều ngư dân muốn đóng tàu vỏ gỗ hơn, trong khi Chính phủ khuyến khích đóng tàu vỏ sắt để vừa giúp phát triển đánh bắt xa bờ vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo?
Theo truyền thống thì ngư dân của ta phần lớn là sử dụng tàu vỏ gỗ. Và họ thích sử dụng tàu vỏ gỗ hơn. Tàu sắt phải đợi thiết kế nên sẽ chậm hơn. Mặt khác, giá thành tàu vỏ gỗ thấp hơn tàu vỏ sắt. Chính vì lẽ đó, người dân thấy giá thành tàu vỏ sắt cao nên họ cũng không mặn mà mấy. Thế nhưng tàu vỏ gỗ công suất nhỏ chỉ có thể khai thác gần bờ, dễ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Vì vậy, Chính phủ ưu tiên đóng tàu vỏ sắt. Và chủ tàu nếu muốn được ưu đãi nhiều hơn thì phải đóng tàu vỏ sắt có công suất lớn. Theo tôi, dù thế nào, chúng ta vẫn phải bám sát mục tiêu ban đầu là phát triển đội tàu cá vỏ thép, công suất lớn để phát triển đánh bắt xa bờ gắn với chiến lược bảo vệ biển đảo, bảo vệ Tổ quốc.
Xin trân trọng cảm ơn ông!