Nghiên cứu hỗ trợ tài chính đối với phụ nữ sinh đủ 2 con
Trường hợp mức sinh của một số địa phương xuống mức rất thấp, Chính phủ báo cáo, đề xuất với Quốc hội có biện pháp can thiệp kịp thời.
Chiều 8/10,
Trong khi đó, theo dự thảo Luật, tại Điều 13 quy định về duy trì mức sinh thay thế. Trong đó, các biện pháp để duy trì mức sinh thay thế như: Tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai; phụ nữ được nghỉ thêm 1 tháng; nam giới được nghỉ thêm 5 ngày làm việc khi vợ sinh con; hỗ trợ tài chính khi sinh con đối với phụ nữ dân tộc ít người; phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi; phụ nữ ở địa phương có mức sinh thấp; ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở đối với phụ nữ sinh đủ 2 con hoặc nam giới có 2 con đẻ mà không có vợ hoặc vợ đã chết.

Trình bày Báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Đắc Vinh cho biết, về duy trì mức sinh thay thế (Điều 13), Thường trực Ủy ban đề nghị nghiên cứu có các biện pháp tổng thể, căn cơ, toàn diện nhằm đạt được mức sinh thay thế bền vững; nghiên cứu quy định theo hướng hỗ trợ tài chính đối với phụ nữ sinh đủ 2 con, trong đó nhóm phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi ở mức hỗ trợ cao hơn; làm rõ tiêu chí “địa phương có mức sinh thấp”. Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung Luật Nhà ở để bảo đảm tính khả thi của quy định ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội đối với một số nhóm đối tượng; bổ sung quy định định kỳ Chính phủ công bố tình trạng mức sinh để chính quyền địa phương xây dựng, thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phù hợp; trường hợp mức sinh của một số địa phương xuống mức rất thấp, Chính phủ báo cáo, đề xuất với Quốc hội có biện pháp can thiệp kịp thời.
Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật và Tư pháp Hoàng Thanh Tùng cho hay, trong ba chính sách mà dự án luật đang dự kiến như tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai; ưu tiên mua, thuê nhà ở xã hội; hỗ trợ tài chính khi sinh con thì trừ chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội, các chính sách còn lại chủ yếu mang tính chất hỗ trợ ngắn hạn.
Theo ông Tùng, nhiều quốc gia chưa thực hiện thành công vấn đề này là chưa có những chính sách mang tính chất dài hạn. Các cặp vợ chồng ngại duy trì mức sinh thay thế xuất phát từ những yếu tố kinh tế - xã hội có tính chất dài hạn như áp lực về nhà ở, thị trường lao động cạnh tranh, chi phí nuôi dạy con, tình trạng bất bình đẳng giới trong chăm sóc trẻ em. Thực tiễn như ở Thành phố Hồ Chí Minh và một số địa phương khác cũng cho thấy tỷ lệ mức sinh thay thế rất là thấp. Thành phố Hồ Chí Minh có 1,39 con/một phụ nữ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu vấn đề này để bên cạnh những chính sách đã đề ra trong dự thảo luật, cũng có những biện pháp có tính chất căn cơ và toàn diện hơn, hỗ trợ lâu dài nhằm tạo điều kiện thực chất để người dân yên tâm kết hôn và sinh đủ 2 con, qua đó duy trì mức sinh thay thế.
Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Tài Chính Phan Văn Mãi đề nghị dự thảo Luật cần nghiên cứu để thể chế hóa nhiều hơn nữa tinh thần của Nghị quyết 72 -NQ/TW của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân vào trong Luật này. “Dân số và chất lượng dân số rất là quan trọng cho sự phát triển. Cho nên, cần có nghiên cứu thêm để bổ sung trong dự thảo luật lần này”, ông Mãi nêu vấn đề.
Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Nguyễn Thanh Hải cho rằng,
hiện nay xuất hiện hiện tượng xã hội là ngại kết hôn, lười kết hôn, và không có
điều kiện tài chính để kết hôn chứ không chỉ là ngại sinh ít. Nguyên nhân là từ
những ví dụ như giá nhà quá cao, khả năng tiếp cận nhà để mua nhà rất là khó đối
với những người có thu nhập thông thường. Rồi chi phí về giáo dục, chi phí về y
tế đối với trẻ em, chi phí học đối với con cái cũng rất cao. Từ đó dẫn tới