Triều Nguyễn, khoa thi Mậu Tuất 1898 diễn ra sự kiện hiếm thấy: 5 vị đỗ đại khoa gồm 3 Tiến sĩ (Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn) cùng 2 Phó bảng (Dương Hiển Tiến, Ngô Chuân) đều là người Quảng Nam. Từ đó, “Ngũ phụng tề phi” trở thành danh xưng khi nói về xứ Quảng với truyền thống hiếu học. Nhưng thời gian trôi đi, danh xưng còn đó nhưng 5 vị đại khoa kia không còn mấy người nhắc đến.
Mộ Tiến sĩ Phạm Liệu nằm giữa bạt ngàn hoa lau.
Thượng thư Bộ Binh, TS Phạm Liệu (1873-1937) là người có sự nghiệp quan trường hanh thông nhất trong “Ngũ phụng”. Tuy nhiên, năm 1933, vua Bảo Đại giải thể nội các toàn những nhà nho do Nguyễn Hữu Bài đứng đầu, Phạm Liệu phải rời chức, về hưu, mất đi trong lặng lẽ.
Cụ Phạm Hữu Nhu (72 tuổi, thôn Hòa Giang, Điện Trung, thị xã Điện Bàn, Quảng Nam), người gọi Phạm Liệu bằng ông nội dẫn chúng tôi thăm mộ Tiến sĩ: một ngôi mộ khuất lấp giữa cánh đồng bắp và nhiều hoa mào gà. Lạ thay, trên bia mộ chỉ đề chữ “Ngũ phụng”, thiếu mất chữ “tề phi”. Cụ Nhu cho hay, vì tộc họ biết cuộc đời ông có tì vết , nên lần sửa mộ năm 1997, không dám xây cao…
Gò Nổi- ốc đảo nằm giữa lòng sông Thu Bồn, nơi sản sinh ra những tên tuổi Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ… và 3 nhân vật trong “Ngũ Phụng tề phi” là Phạm Liệu, Phạm Tuấn và Dương Hiển Tiến.
Hỏi đường đến mộ các cụ Hoàng Diệu, Phạm Phú Thứ rất dễ, nhưng hỏi mộ của 3 vị trong Ngũ phụng, thì toàn được nhận cái lắc đầu. Mộ TS Phạm Tuấn (1852-1917), vì đã được công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh (vào 15/2/2005), nên có bảng chỉ dẫn đường vào. Nhưng men theo con ngõ có bảng chỉ dẫn, giật mình biết chẳng có đường nào dẫn vào mộ.
Muốn đến mộ, phải băng qua những đám ruộng của cánh đồng Xuân Đài (thôn Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn). Cỏ dại um tùm trong khuôn viên mộ phần có diện tích chừng 160 m2. Trận lụt năm 2007 đã làm dãy tường phía sau đổ sập, bia ghi công trạng vỡ ngổn ngang.
Ông Phạm Quốc Cường (53 tuổi, thôn Xuân Đài, Điện Quang), người gọi Phạm Tuấn là ông cố, cho biết: “Trước đây, mộ gần sông, gia tộc sợ bị nước cuốn trôi nên cải táng về Cồn Nô. Sau 1975, lại cải táng về nơi này, vì thiếu đất nên phải dựng mộ giữa ruộng”. Không khỏi chạnh lòng vì cuộc đời quan nghiệp của ông cũng đâu kém ai: làm quan đến Thừa biện Bộ Lễ; là sơ khảo, phúc khảo nhiều trường thi...
Không đơn chiếc như hai ngôi mộ trên, mộ của Phó bảng Dương Hiển Tiến (1866-1907) nằm giữa hàng trăm ngôi mộ của nghĩa địa Ma Khô (thôn Cẩm Phú 1, xã Điện Phong, huyện Điện Bàn). Sau đỗ Phó bảng, cụ Dương Hiển Tiến được vua ban chức Huấn đạo. Không chấp nhận với sự thối nát quan trường, chỉ hơn 1 năm, Phó bảng cáo quan, về quê dạy học, rồi mất trong tình làng nghĩa xóm.
Chiến tranh phá hỏng mộ cụ, sau năm 1975 gia tộc cải táng về đây. Đến lần tu bổ năm 2001, mộ cụ hoàn chỉnh với hình bát giác, theo lối song tam mộ, nằm giữa mộ hai người vợ, cùng mộ họ mạc.
Ngược lên vùng trung du huyện Quế Sơn (Quảng Nam), men theo con đường đất quanh co nơi ruộng đồng thôn Phước Đức (xã Quế Châu) là tới một xóm nhà hẻo lánh. Mộ TS Phan Quang (1873-1939) nằm nép bên cạnh vườn một ngôi nhà gạch nhỏ, giữa rừng keo lá tràm, um tùm cỏ dại. Đường dẫn vào mộ rộng chỉ hơn nửa mét, nghiêng ngửa cây cối, không có bảng chỉ dẫn nào để người ta nhận biết đây là ngôi mộ đã được công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh (vào 15/12/2009).
Sau đỗ TS, cụ Phan làm quan đến chức Tham tri Bộ Hình. Năm 1930, về hưu, rồi mất tại quê nhà. Phần mộ do con cháu dòng tộc trùng tu chừng 10 năm trước trên diện tích xấp xỉ 80m2. Trong lần tu bổ này, tộc họ vẫn giữ lại tấm bia cổ, cùng hai con nghê đá chầu hai bên bình phong. Lưa thưa cỏ dại trong khuôn viên mộ, rêu phong kín từng thớt gạch...
Trong gian nhà thờ TS Phan Quang ở gần đấy, cụ ông Phan Hưng (95 tuổi, người gọi Phan Quang bằng nội), bộc bạch: “Vì mộ của nội tôi là di tích cấp tỉnh, muốn sửa sang gì, chúng tôi phải xin phép. Gia tộc chúng tôi rất mong các cấp ngành chỉnh trang lại ngôi mộ, đồng thời làm bảng chỉ dẫn di tích, để người dân quê tôi có thể hiểu hơn về văn hóa, truyền thống hiếu học của quê mình”.
Thật đáng tiếc khi trước đây giới nghiên cứu cho rằng “Ngũ phụng tề phi” tuy đỗ đạt cao nhưng không một ai dấn thân vào công cuộc cải cách xã hội. Vì thế, theo thời gian, tên tuổi của các vị dần vào quên lãng. Đấy là các nhà nghiên cứu đang suy xét ngũ phụng qua “lăng kính người hùng”.
Tuy nhiên, nhân việc này cũng cần nhắc lại chuyện của vị Phó bảng cuối cùng trong Ngũ phụng- Ngô Chuân (1873 - 1899) vẫn được người khối phố Cẩm Sa (xã Điện Nam Bắc, huyện Điện Bàn) nhớ rõ. Cha mất sớm, nhà quá nghèo, mẹ dắt díu Ngô Chuân từ làng Mông Lãnh (Quế Sơn) đến làng Cẩm Sa ngụ cư. Ngô Chuân sống cùng mẹ trong căn nhà tranh bên rìa làng, đêm bắt đom đóm lấy ánh sáng học bài, ấy thế mà đậu Phó bảng.
Khác với các vị Ngũ phụng còn lại, Ngô Chuân là dân ngụ cư, nên các tộc lớn trong làng chỉ đón rước lấy lệ; có người ác ý, trong ngày đón rước, treo giữa làng đôi câu đối còn truyền miệng cho đến giờ: “Cá Ký vẫy vùng không khỏi nước/Bí Ngô eo ngỏng bởi vì ong”.
Làng Cẩm Sa giờ đã thành khối phố. Mộ Ngô Chuân vẫn nằm giữa trảng cát cháy nắng. Năm 2000, quy hoạch khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, chính quyền xã Điện Nam Bắc cùng gia đình dời mộ Ngô Chuân về địa điểm bây giờ. Một nấm mộ rộng chưa đến 10m2.
*
* *
Ngày 5 vị vinh quy, con đường từ đỉnh đèo Hải Vân đến Vĩnh Điện, hương lý các làng cho dân quét dọn sạch sẽ, đặt bàn hương án bên vệ đường và có các vị chức sắc, thân hào chỉnh tề khăn áo nghinh đón. Bây giờ, thật ái ngại khi nhìn mộ 5 vị. Hỏi tên, nhiều người bảo không biết. Hỏi mộ, chỉ nhận cái lắc đầu. 5 vị, mỗi người mỗi cuộc quan lộ, danh thơm để lại cũng khác nhau, nhưng đều góp phần tạo nên danh xưng “Ngũ Phụng tề phi”, biểu tượng cho truyền thống hiếu học xứ Quảng. Nhưng bây giờ chỉ là những nấm mồ hoang sơ...