Giữa những ngày tháng Tư lịch sử, trước dấu mốc quan trọng tròn 50 năm kể từ ngày 30-4 thống nhất non sông, suốt mấy tháng qua, trên nhiều diễn đàn, có nhiều người đã nhắc đến tên Bà - Madame Bình. Năm nay đã ở tuổi 98, bà Nguyễn Thị Bình không chỉ là người chứng kiến những thời khắc lịch sử mà cuộc đời bà đã thuộc về lịch sử.
Lần đầu tiên tôi có vinh hạnh được phỏng vấn bà là năm 2004, khi đó bà còn đang là Chủ tịch Quỹ Hòa bình và phát triển. Buổi đầu, khi tôi bấm chuông ngôi nhà ở 68 Trần Hưng Đạo, Hà Nội cô giúp việc ra mở cổng cho biết đêm qua bà mất ngủ nên hôm nay không tiếp phóng viên được, hẹn một hôm khác. Vài ngày sau, bà cho thư ký gọi mời đến nơi làm việc của bà là Quỹ Hòa bình ở một căn biệt thự trên phố Bà Triệu…
Khi đó, tôi đã thực sự cảm động khi bà không quên lịch hẹn với một phóng viên trẻ. Sau này, khi tôi đã được gặp, trò chuyện, phỏng vấn bà rất nhiều lần, càng đặc biệt cảm phục và hiểu hơn rằng nhà ngoại giao xuất sắc ấy không bao giờ xuất hiện trước báo chí, dù chỉ là một phóng viên nhỏ bé, với phong thái không được hoàn hảo nhất.
Có nhiều yếu tố hội tụ làm nên phẩm chất đặc biệt của Bà – một trí thức từng theo học “trường Tây”, một nhà yêu nước và cách mạng, một nhà ngoại giao xuất sắc, một nhân vật lịch sử của những thời khắc lịch sử của đất nước.
Trong hành trình đi đến ngày đất nước thống nhất, Hiệp định Paris giữa một dấu mốc quan trọng mà ở đó bà đảm nhận vai trò Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Bà là người phụ nữ duy nhất ký vào bản Hiệp định bốn bên.
Còn nhớ năm 2013, kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris, khi đó bà đã ở tuổi 86, dịp đó Hà Nội quá lạnh, bà bị mệt và có thể buổi hẹn trả lời phỏng vấn tất cả các cơ quan báo đài đã được lên lịch có thể sẽ bị hoãn. Nhưng khi thấy trời ấm lên, có thể xuất hiện trước truyền thông với vẻ ngoài khỏe mạnh, minh mẫn bà đã giữ lịch hẹn.
Tất cả các phóng viên trong và ngoài nước có mặt chờ để phỏng vấn bà ở trụ sở Quỹ Hòa bình hôm ấy kinh ngạc khi đúng giờ hẹn, bà xuất hiện với một phong thái lịch lãm hiếm có. Cô thư ký kể rằng hôm đó bà đã dậy rất sớm, mời người đến trang điểm và vấn tóc. Buổi phỏng vấn kéo dài đến gần trưa, tất cả các phóng viên kính phục vì với trí tuệ mẫn tiệp, bà trả lời không sót một câu hỏi nào.
Ngày hôm ấy, mặc dù bà tuổi đã cao, vẫn trang điểm rất đẹp ngồi giữa rất nhiều ống kính quay phim chụp ảnh. Và tất cả các nhà báo lại nhớ về cuộc họp báo năm 1971 diễn ra trong thời gian đàm phán Hiệp định Paris. Cuộc họp báo ấy được truyền thông quốc tế truyền hình trực tiếp ở hai đầu Paris và Washington, với sự có mặt của 20 nhà báo, phần lớn ủng hộ Mỹ, một phần người Pháp thì trung lập. Sự kiện mà sau đó người ta ví von Madame Bình giống như đang “khiêu vũ giữa bầy sói”. Bà đứng trước ống kính trả lời mạnh mẽ từng câu hỏi bằng những lập luận đanh thép của một người phụ nữ xinh đẹp thông minh, tranh luận bằng tiếng Pháp lưu loát.
Vẹn nguyên trong bà thời khắc bà tự tay đặt bút ký vào bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Khi chúng tôi hỏi về cảm xúc của bà vào giây phút lịch sử ấy, bà đã nói: “Cuộc đàm phán kéo dài gần 5 năm, đúng ra là 4 năm 8 tháng. Khi đặt bút ký, tôi được thay mặt nhân dân miền Nam ký vào một văn kiện lịch sử. Kết quả của Hiệp định là bao nhiêu xương máu của đồng bào, đồng chí. Lúc ấy tôi nghĩ đến những người thân quen đã đi xa không được chứng kiến những giờ phút lịch sử này...Xúc động trào nước mắt. Cảm xúc ấy đi cùng tôi suốt cuộc đời.”
Bốn năm tám tháng, quãng thời gian đằng đẵng trong hành trình ở quê nhà vẫn đang chiến đấu, còn trên bàn ngoại giao là những cuộc đấu trí căng thẳng với cùng một khát vọng và mong mỏi một ngày thống nhất đất nước.
Bà nhớ rõ cảm giác những lúc bi quan trong quá trình đàm phán dài dằng dặc ấy. Bà kể: “Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam là cuộc đàm phán ngoại giao dài nhất trong lịch sử, cho một cuộc chiến tranh cũng dài nhất trong lịch sử. Gần 5 năm trời ngồi trên bàn ngoại giao không phải dễ dàng gì. Nhất là cuộc đấu tranh có lúc dậm chân tại chỗ. Có lúc báo chí phương Tây nói rằng đây là câu chuyện giữa người “điếc” với nhau, mỗi bên đều nói lập trường của mình. Không ai nghe ai hết. Thực tế trên chiến trường tương quan lực lượng chưa rõ. Vì vậy hai bên giằng co. Có những cuộc họp lặp đi lặp lại, chán ngán lắm. Nhưng có một điều luôn luôn phải thường trực trong ý nghĩ là không bao giờ được thất bại. Nhất định cuộc kháng chiến của mình sẽ giành thắng lợi, chỉ có vấn đề là lúc nào thôi. Và mong muốn là nó đến sớm.”
Truyền thông thế giới lúc ấy gọi bà là Madame Bình với tràn ngập hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thật đẹp, thật lạ trên bàn đàm phán Hiệp định Paris nói như một nhà văn là: “Khiêm nhường mà uyên bác, gần gũi mà sang trọng, sự kiên định không gì lay chuyển nổi lại được thể hiện chính bằng một vẻ thong dong đầy tự tin...”, bà đã góp công lớn cho thành công của Hiệp định Paris và “mang bạn bè về cho dân tộc”.
Nhiều người nói rằng cuộc đàm phán Paris có một bên “thứ 5” là tình cảm, sự ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân các nước đối với Việt Nam. Nhắc đến điều này, bà kể: Có rất nhiều câu chuyện cảm động bên lề Hội nghị Paris mà nhiều người đã biết. Lúc bấy giờ, Paris như là tâm điểm của thế giới. Vì cả thế giới theo dõi xem lúc nào chiến tranh ở Việt Nam sẽ chấm dứt. Vì nó kéo dài quá. Chúng ta nhớ rằng tờ NewYork Time của Mỹ tổng kết trong 10 năm, cột tin trang nhất của tờ báo hàng ngày đó chỉ nói về chiến tranh Việt Nam. Rồi vô tuyến truyền hình thế giới, trong 5 năm diễn ra Hội nghị Paris, thứ 5 nào họ cũng chiếu cảnh mấy đoàn gặp nhau để đàm phán. Vì vậy tôi trở thành người quen thuộc với những người chưa hề gặp bao giờ. Có 1 lần ở sân bay Paris tôi gặp một số phụ nữ, họ chạy đến bắt tay tôi, tay bắt mặt mừng. Tôi nghĩ bụng không biết mấy bà này ở đâu. Tôi nói là tôi chưa quen các vị. Các bà ấy nói là không, chúng tôi quen bà. Tôi hỏi vậy các bà quen tôi ở đâu? Họ nói là quen trên vô tuyến truyền hình, mỗi thứ 5 đều chiếu hình ảnh bà ở Hội nghị đàm phán nên tôi quen với bà lắm”.
Nói về đóng góp của ngoại giao cho ngày Chiến thắng 30-4, bà Nguyễn Thị Bình đánh giá: “Hiệp định Paris là kết quả của cả cuộc chiến đấu, 18 năm ròng rã. Có Hiệp định rồi lại phải 2 năm nữa mới đi đến đại thắng Mùa xuân 1975. Cuộc chiến đấu rất dài. Có thể nói Đại thắng mùa xuân 1975 là thắng lợi nhờ cuộc đấu tranh trên 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Khi đàm phán tại Hội nghị Paris đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuy 2 mà 1, nên vận động quốc tế chúng ta có cùng 1 nội dung nhưng mỗi đoàn lại có 1 nội dung hơi khác nhau. Chính phủ Cách mạng lâm thời với đường lối rộng rãi của mình có thể tranh thủ được rộng rãi nhiều lực lượng, những người không thuộc đảng phái nào nhưng ủng hộ độc lập hòa bình. Còn đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ thu hút sự ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa mà còn thu hút lực lượng của các phong trào cánh tả... Nên phong trào đoàn kết quốc tế do 2 đoàn chúng ta do 2 chủ thể triển khai tạo thành một mặt trận đoàn kết quốc tế rất rộng lớn chưa từng có trong lịch sử. Nó tác động đến các chính phủ, đặc biệt, chính phủ Mỹ và tạo thuận lợi cho chúng ta trong cuộc đàm phán.
Rốt cuộc chúng ta buộc được Mỹ phải chấm dứt chiến tranh rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam, để vấn đề Việt Nam cho những người Việt Nam giải quyết. Điều đó có ý nghĩa to lớn lắm.”
Trong cuộc phỏng vấn bà Nguyễn Thị Bình năm 2013 nhân kỷ niệm 40 năm ký Hiệp định Paris, có câu hỏi của phóng viên nước ngoài nói về xương máu mà người Việt Nam phải trả để đi đến ngày thống nhất liệu có lớn quá không. Bà đã nghiêm nghị trả lời đầy khúc chiết, sắc sảo: “Tất nhiên chúng ta cũng phải hy sinh xương máu. Nhưng nếu không trả giá đắt thì không thể thắng lợi, phải thấy cái đó. Điều rút ra là ta phải chiến đấu vì lợi ích của chúng ta. Chính thế giới không những ủng hộ Việt Nam vì chúng ta có chính nghĩa mà họ còn ủng hộ vì chúng ta dám đứng lên bảo vệ nền độc lập của mình, quyết tâm chiến đấu và đã thắng lợi từng bước. Điều đó tạo ra tình cảm mến phục của cả thế giới đối với chúng ta. Do đó, chúng ta có được sự ủng hộ quốc tế rất lớn của thế giới. Muốn có được đoàn kết quốc tế rộng lớn thì đoàn kết dân tộc phải vững mạnh. Đó là bài học còn giá trị cho đến ngày nay và cả tương lai.”
Câu trả lời của bà cho đến dịp kỷ niệm 50 năm ngày Chiến thắng 30-4, vẫn vang lên nhắc về khát vọng mãnh liệt giành độc lập, thống nhất non sông của một thế hệ cha ông.
50 năm sau ngày đất nước thống nhất, thật mừng vì bà Nguyễn Thị Bình đã bước vào tuổi 98 và vừa đón nhận Huy hiệu 80 tuổi Đảng. Tôi đã rất muốn được gặp và thêm một lần được phỏng vấn bà, nhưng sức khỏe không cho phép khiến bà không nhận lời.
Bằng bài viết này xin được kính chúc bà mạnh khỏe và trường thọ!
Bà Nguyễn Thị Bình tên thật là Nguyễn Thị Châu Sa, quê gốc của bà ở Quảng Nam. Bà là cháu ngoại cụ Phan Châu Trinh, cha bà là Trưởng ban Công binh Nam Bộ. Tên khai sinh của bà Bình gắn với tỉnh Sa Đéc (cũ) nơi cha bà - một viên chức ngành trắc địa từng công tác.
Khi cha bà sang Campuchia công tác, cả gia đình cũng đi theo. Bà được học tại trường trung học lớn nhất của Campuchia, ngôi trường có nhiều con cái công chức người Pháp hoặc có quốc tịch Pháp.
Năm bà 16 tuổi, người mẹ không may qua đời vì đau yếu, bà cùng cha lo toan việc gia đình, thay mẹ lo cho các em. Tại đây bà tham gia hoạt động của Hội Việt kiều yêu nước tại Phnom Penh. Sau cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương năm 1945, như nhiều người Việt, bà Bình gác lại việc thi tú tài, cùng gia đình về nước trực tiếp tham gia cuộc đấu tranh lớn của dân tộc.
Năm 1951, người phụ nữ kiên trung bị địch bắt, chịu nhiều màn tra tấn tàn bạo nhưng vẫn âm thầm tổ chức các hoạt động học tập văn hóa, chính trị trong tù.Sau khi ra tù một thời gian, bà Bình được điều về Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung ương và rồi "bén duy-ên" với ngoại giao từ năm 1961. Từ đây, bà đổi tên Châu Sa thành Nguyễn Thị Bình với hàm ý là "hòa bình".
Năm 1968, bà Bình đại diện cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam tham gia đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Sau nhiều nỗ lực, ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết. Nhớ về ngày lịch sử của dân tộc, cũng là ngày không thể quên trong cả cuộc đời, bà Bình xúc động: "Tôi như thay mặt nhân dân và các chiến sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ đấu tranh trên tiền tuyến và trong lao tù cắm ngọn cờ chiến thắng chói lọi. Vinh dự đó đối với tôi thật quá to lớn.”