Báo Đại Đoàn Kết Mặt trận

Người tù Côn Đảo và bản hùng ca dưới lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Người tù Côn Đảo và bản hùng ca dưới lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Ngày 20/12/1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời với sứ mệnh cao cả: hiệu triệu, tập hợp mọi tầng lớp nhân yêu nước, đấu tranh giành hòa bình, thống nhất đất nước. Dưới lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có biết bao tấm gương cán bộ, chiến sĩ, đồng bào, đã chiến đấu quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, trong đó có ông Lê Quang Vịnh.

Từ một trí thức trẻ tài năng đất cố đô, ông Lê Quang Vịnh đã dâng hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân cho lý tưởng độc lập. Trải qua 14 năm nếm trải mọi cực hình nơi "địa ngục trần gian" Côn Đảo, với 3 lần bị tuyên án tử hình, ông vẫn kiên cường giữ vững khí tiết người chiến sĩ cộng sản, tận hiến cả cuộc đời cho dân tộc, cho sự nghiệp đại đoàn kết.

"Vỏ bọc" trí thức giữa lòng đô thị

Ông Lê Quang Vịnh sinh năm 1936, tại Huế, trong một gia đình trí thức giàu truyền thống cách mạng. Cha ông là một luật sư nổi tiếng, giỏi tiếng Pháp, người đã hy sinh khi tham gia kháng chiến nội thành. Sự hy sinh của cha và cảnh nước nhà lầm than đã hun đúc trong tâm hồn người thiếu niên họ Lê một ý chí sục sôi: phải đứng lên tiếp bước con đường của cha ông.

Năm 14 tuổi, khi đang là nam sinh năm thứ ba trường Trung học Khải Định (Huế), Lê Quang Vịnh đã sớm dấn thân vào con đường cách mạng bằng việc gia nhập Đoàn học sinh kháng chiến tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1950, trong một lần tham gia rải truyền đơn kêu gọi học sinh bãi khóa để phản đối thực dân Pháp bắt bớ các bạn học, ông bị địch bắt và giam giữ 7 tháng tại nhà lao Thừa Phủ.

Sự hà khắc của lao tù không làm ông nhụt chí, trái lại càng làm tăng thêm bản lĩnh của người chiến sĩ trẻ. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục hoạt động và bị bắt lần thứ hai vào tháng 9/1955. Gần một năm trong ngục tối lần này chính là khoảng thời gian ông được giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, định hình rõ con đường đấu tranh không mệt mỏi sau này.

Ông Lê Quang Vịnh chia sẻ về những năm tháng chiến đấu dưới lá cờ Mặt trận.
Ông Lê Quang Vịnh chia sẻ về những năm tháng chiến đấu dưới lá cờ Mặt trận.

Mãn hạn tù, Lê Quang Vịnh vào Sài Gòn tiếp tục việc học và hoạt động trong phong trào thanh niên. Dưới sự dẫn dắt của những trí thức yêu nước lớn như Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ông nhanh chóng trở thành hạt nhân nòng cốt của tổ chức thanh niên bí mật tại đô thành. Năm 1960, ông vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, ông được bổ nhiệm về giảng dạy tại ngôi trường danh tiếng Pétrus Ký. Tuy nhiên, để tạo vỏ bọc an toàn cho các hoạt động cách mạng, ông vẫn ghi danh theo học tại các trường Đại học Văn khoa, Khoa học và Luật khoa. Hình ảnh một giáo sư, một sinh viên đa tài thực chất là tấm khiên vững chắc để ông thâm nhập sâu vào các phong trào đấu tranh của trí thức và học sinh, sinh viên miền Nam.

Tháng 8/1961, bước ngoặt lớn đến khi ông được tổ chức gọi vào căn cứ của Hội Liên hiệp sinh viên, học sinh Giải phóng khu Sài Gòn - Gia Định. Tại đây, ông được giao trọng trách dự thảo “Báo cáo phong trào đấu tranh của sinh viên miền Nam” và thư của Hội Liên hiệp sinh viên, học sinh giải phóng miền Nam để gửi Hội nghị sinh viên quốc tế tổ chức ở Hà Nội vào ngày 22 tháng 8 năm 1961.

Tuy nhiên, trong khi Thường trực Hội Liên hiệp Sinh viên, học sinh Giải phóng miền Nam đang duyệt các bản dự thảo do ông chắp bút thì ông bị địch bắt. Với các chứng cứ thu thập được, chính quyền Sài Gòn cáo buộc Lê Quang Vịnh cùng các đồng chí như Lê Hồng Tư và 10 sinh viên khác vào vụ án "mưu sát đại sứ Mỹ". Đây là một âm mưu nhằm trấn áp phong trào sinh viên đang dâng cao lúc bấy giờ.

Biến pháp đình thành nơi luận tội kẻ thù

Trong những ngày bị giam cầm tại "Câu lưu xá" trước phiên tòa, thay vì lo sợ ông và các đồng đội đã tìm cách liên lạc để thống nhất một kế hoạch táo bạo: biến phiên tòa quân sự đặc biệt thành nơi luận tội kẻ thù.

Họ đặt ra những nguyên tắc thép: Không thừa nhận quyền xét xử của tòa án bù nhìn, quyết tâm bảo vệ danh dự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Lê Quang Vịnh đã tranh thủ dạy các đồng đội bài hát chính thức của Mặt trận. Những câu hát “Vùng lên nhân dân miền Nam anh hùng” vang lên hừng hực khí thế, những câu khẩu hiệu, những câu đối đáp trước tòa với quyết tâm nêu cao chính nghĩa cách mạng, giương cao ngọn cờ chính nghĩa của Mặt trận trước phiên tòa đã được xác định là trận đánh sinh tử.

Phiên tòa ngày 23/5/1962 kéo dài suốt 18 tiếng đồng hồ đã trở thành một cuộc đấu trí nghẹt thở. Trước những họng súng và sự đe dọa, Lê Quang Vịnh và đồng đội đã phản biện sắc sảo, khẳng định tính chính nghĩa của Mặt trận.

Kết thúc phiên tòa, địch tuyên án tử hình đối với ông và 3 người khác. Đáp lại bản án tử là tiếng hô vang dội: “Đả đảo luật pháp phátxít miền Nam!”, “Tinh thần bất khuất của sinh viên, học sinh miền Nam muôn năm!”. Hình ảnh những người tù vừa bị tuyên án tử hình bước ra xe vừa hát vang bài ca Giải phóng đã trở thành biểu tượng bất tử về khí tiết của người chiến sĩ cộng sản.

14 năm chiến đấu bất khuất nơi "địa ngục trần gian"

Trước sức ép mạnh mẽ từ dư luận quốc tế và phong trào đấu tranh trong nước, chính quyền Sài Gòn không dám thi hành án tử hình ngay lập tức mà đày ông ra Côn Đảo. Tại đây, Lê Quang Vịnh tiếp tục viết nên những trang sử kiên cường mới.

Ông là người đứng đầu các phong trào "Chống chào cờ" (không chào cờ ba que của địch) và giữ vững khí tiết trong những điều kiện khắc nghiệt nhất.  Không những thế, ông còn biến nhà tù thành trường học: tham gia tổ chức các lớp học văn hóa, chính trị cho anh em tù nhân.

Sau nhiều đấu tranh, hy sinh gian khổ, phong trào đã giành thắng lợi quyết định, địch chấp nhận không dùng vũ lực bắt buộc tù nhân chào cờ, nhưng vẫn nhốt riêng những người chống chào cờ vào khu biệt giam. Từ mùa thu 1970, khu vực riêng cho tù chống chào cờ hình thành ở Côn Đảo. Tù chính trị bầu đại diện, tự tổ chức cuộc sống, học tập, ca hát.

Nhớ về “Mặt trận trong lao tù”, ông chia sẻ: “Cuộc đấu tranh của tù chính trị là một bộ phận của cuộc đấu tranh chung đòi phải thừa nhận quyền đại diện cho nhân dân miền Nam của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời, chúng tôi vô cùng phấn khởi vì đã có ngọn cờ để theo”.

Năm 1973, hiệp định Pari được ký kết, chính quyền Sài Gòn vi phạm trắng trợn Nghị định thư về tù nhân. Ông cùng các tù chính trị quyết liệt tố cáo âm mưu ém giấu và mạo chuyển tù chính trị thành tù thường án, đòi trả ngay tất cả tù chính trị về với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Thế là những người tù đã bị đàn áp dã man bằng cảnh sát dã chiến, súng phun lửa phóng phi tiễn hóa học...

Dù bị giam trong "Chuồng cọp", "Hầm đá" – những nơi tàn bạo nhất thế giới – và bị hành hạ bởi súng phun lửa hóa học,  bị tra tấn khiến sức khỏe kiệt quệ nhưng ý chí của Lê Quang Vịnh chưa bao giờ lung lay.

Ông Lê Quang Vịnh trao tặng bản thảo cuốn hồi ký Tổ quốc-Quê hương và Gia đình tôi cho Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông Lê Quang Vịnh trao tặng bản thảo cuốn hồi ký Tổ quốc-Quê hương và Gia đình tôi cho Bảo tàng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Ngày trở về và tinh thần tận hiến

Lê Quang Vịnh chịu cảnh tù đày khốc liệt nhiều năm ở Côn Đảo cho đến  ngày Côn Đảo hoàn toàn giải phóng. Sáng 1/5/1975, Lê Quang Vịnh là người cuối cùng bước ra khỏi Hầm đá Côn Đảo. Bước ra ánh sáng sau bao năm bị tù đày trong tăm tối, giây phút nhìn thấy lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay giữa nắng gió biển đảo, người tử tù kiên cường ấy đã không ngăn nổi những giọt nước mắt hạnh phúc tuôn trào.

Sau ngày thống nhất, ông tiếp tục đóng góp trí tuệ cho đất nước qua nhiều chức vụ quan trọng: Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Trung ương Đoàn, Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Phó Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ở bất kỳ vị trí nào, ông cũng dành tâm huyết để vun đắp khối đại đoàn kết dân tộc.

Cuộc đời của ông Lê Quang Vịnh là một minh chứng hùng hồn cho sự kết hợp giữa trí tuệ của một trí thức và bản lĩnh sắt đá của một chiến sĩ cộng sản. 14 năm tù đày, 3 lần đối diện với án tử, nhưng lá cờ của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn luôn thường trực trong trái tim của ông, thôi thúc ông chiến đấu quả cảm, giữ vững khí tiết kiên cường, niềm tin son sắt vào ngày hòa bình, thống nhất đất nước.

Tinh thần, nghị lực, trí tuệ, bản lĩnh, nhân cách của một chiến sĩ cách mạng đã tận hiến cả cuộc đời mình cho dân tộc là nguồn động lực, cảm hứng mãnh liệt cho thế hệ trẻ hôm nay về lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng cống hiến cho một Việt Nam hùng cường trong kỷ nguyên mới.

                                                                                         

Thu Hoàn