Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, năm 2023 đánh dấu một cột mốc rất quan trọng, lần đầu tiên tại Việt Nam, lĩnh vực lâm nghiệp đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng thế giới (WB). Với đơn giá bán tín chỉ 5 USD/tấn carbon hấp thụ, tổng giá trị của hợp đồng lên tới 51,5 triệu USD (khoảng 1.250 tỷ đồng).
Tăng thu nhập nhờ tín chỉ carbon rừng
Việc bán tín chỉ carbon rừng nằm trong thỏa thuận chi trả phát thải nhà kính (ERPA) vùng Bắc Trung Bộ được ký ngày 22/10/2020 giữa Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT).
Tiếp đó, thỏa thuận ERPA đã được thể chế hóa tại Nghị định số 107/2022/NĐ-CP ngày 28/12/2022 của Chính phủ về thí điểm chuyển nhượng kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả giảm phát thải khí nhà kính vùng Bắc Trung Bộ. Đây là Nghị định đầu tiên giúp tạo ra một quy trình trong việc trao đổi, chuyển nhượng và triển khai carbon rừng ở Việt Nam; đồng thời đánh dấu bước ngoặt đưa Việt Nam bước đầu tiếp cận, tham gia cùng xu hướng chung của thế giới trong việc trao đổi, chuyển nhượng, thương mại tín chỉ giảm phát thải carbon rừng.
Đầu tháng 8/2023, WB đã thanh toán tiền ERPA đợt 1 cho Bộ NNPTNT là 41,2 triệu USD (tương đương 997 tỷ đồng), đạt 80% kết quả giảm phát thải theo ERPA đã ký. Số tiền còn lại 10,3 triệu USD (tương đương 249 tỷ đồng) sẽ thanh toán sau khi hoàn thành việc chuyển giao 10,3 triệu tấn CO2. Đến nay, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam đã tiếp nhận số tiền thanh toán đợt 1 từ WB và đã giải ngân toàn bộ để các tỉnh khẩn trương lập kế hoạch chi trả cho các chủ rừng thuộc 6 tỉnh Bắc Trung Bộ.
Trong số 6 tỉnh này, Nghệ An là tỉnh được giải ngân hơn 282 tỷ đồng, tiếp đến là Quảng Bình với hơn 235 tỷ đồng, Thanh Hóa 162 tỷ đồng, Hà Tĩnh 122 tỷ đồng, Thừa Thiên Huế 107 tỷ đồng và Quảng Trị hơn 51 tỷ đồng.
Tín chỉ carbon rừng được tạo ra từ các hoạt động dự án giảm phát thải nhà kính như giảm mất rừng và suy thoái rừng; tăng cường hoạt động trồng rừng, tái trồng rừng, tái tạo thảm thực vật và hoạt động tăng cường quản lý rừng. Chủ rừng có thể quy đổi diện tích rừng đang quản lý, bảo vệ ra lượng hấp thụ khí CO2, ra tín chỉ carbon và có thể bán tín chỉ này tại thị trường carbon qua cơ chế giảm phát thải khí nhà kính.
Theo Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT), tại một số địa phương, nguồn thu dịch vụ môi trường rừng rất thấp. Ví dụ, Bắc Giang, năm 2019, nguồn thu chỉ khoảng 1,15 tỷ đồng, trong khi số chủ rừng lại rất nhiều (6.541 chủ rừng), mức chi bình quân cho mỗi chủ rừng là 175.814 đồng/năm, thậm chí, nhiều chủ rừng có mức chi trả dưới 50.000 đồng/năm. Chính vì vậy, bán tín chỉ carbon rừng có ý nghĩa rất lớn. Ước tính có khoảng 25 triệu người, với trên 12 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số đang sống gần rừng, hàng ngày thực hiện hoạt động hưởng lợi trực tiếp hoặc gián tiếp từ rừng.
Hướng đến xuất khẩu
Theo số liệu thống kê của Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT), tổng nguồn thu từ các loại dịch vụ môi trường rừng năm 2023 là 4.130,40 tỷ đồng. Trong đó, 70% là thu từ cơ sở sản xuất thủy điện (2.919,64 tỷ đồng); các nguồn thu khác chiếm tỷ trọng khá thấp như sản xuất nước sạch (121,34 tỷ đồng), sản xuất công nghiệp (43,23 tỷ đồng), kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái (28,64 tỷ đồng), nuôi trồng thủy sản và thu lãi ngân hàng (20,51 tỷ đồng). Trong khi đó, Việt Nam có khoảng 14,7 triệu héc ta rừng, độ che phủ là 42,2%, trong đó có hơn 10 triệu héc ta rừng tự nhiên, được đánh giá là có tiềm năng với các dự án về tín chỉ carbon rừng, khi có thể tạo ra khoảng 50-70 triệu tín chỉ carbon rừng mỗi năm, tạo nguồn thu lên đến hàng nghìn tỷ đồng nếu xuất khẩu thành công.
Đề cập về tiềm năng xuất khẩu tín chỉ carbon rừng, ông Trần Quang Bảo - Cục trưởng Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT) đánh giá, việc triển khai thực hiện dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng nói chung trên toàn quốc thì mỗi năm sẽ có thêm nguồn tài chính đáng kể, bền vững phục vụ công tác quản lý, bảo vệ rừng hiệu quả, giúp giảm áp lực cho ngân sách nhà nước đầu tư vào ngành lâm nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay đang thiếu khung pháp lý, hướng dẫn kỹ thuật quy định chi tiết về chuyển nhượng, chia sẻ lợi ích, xác định giá tín chỉ carbon...
PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi - Phó Chủ tịch Hội Chủ rừng Việt Nam đánh giá, đây là một dự án mang lại hiệu quả kinh tế lớn cho các hộ dân đang quản lý, bảo vệ rừng. Tín hiệu đáng mừng là trữ lượng hấp thụ carbon rừng của Việt Nam không chỉ có xu hướng tăng so với giai đoạn trước mà còn tăng vượt trội so với mức phát thải trong lâm nghiệp. “Mặc dù Nhà nước đã có chủ trương xây dựng thị trường tín chỉ carbon từ năm 2012, được cụ thể hóa qua nhiều luật như: Luật Lâm nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường... Ngày 7/1/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, trong đó nêu rõ sẽ triển khai thí điểm thị trường tín chỉ carbon vào năm 2025, vận hành chính thức vào năm 2028. Tuy nhiên, do đây là vấn đề mới nên hiện nay còn nhiều vướng mắc, bất cập” - PGS.TS Nguyễn Bá Ngãi cho biết.
Theo các chuyên gia để biến tiềm năng carbon rừng thành hàng hóa, mang lại nguồn thu thì việc xây dựng, vận hành thị trường tín chỉ carbon là việc làm có ý nghĩa tiên quyết. Đây cũng là yếu tố quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu nước ta đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chính vì vậy, cần sớm có giải pháp tổng thể hướng đến mục tiêu xuất khẩu lượngtín chỉ carbon từ rừng.
Năm 2024, ngành lâm nghiệp đề ra mục tiêu duy trì tỷ lệ che phủ rừng của cả nước ổn định 42,02%; tốc độ tăng giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt từ 5% đến 5,5%; Trồng rừng tập trung là 245 nghìn ha; Trồng cây phân tán đạt 140 triệu cây; sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt 23 triệu m3; thu dịch vụ môi trường rừng là 3.200 tỷ đồng; giá trị xuất khẩu lâm sản đạt 17,5 tỷ USD.