Phủ Thường Tín ở phía bắc Sơn Nam. Ba huyện trong phủ đều có tiếng văn học nhưng huyện Thanh Trì, huyện Thượng Phúc thịnh hơn. Những người học giỏi, bề tôi hiền nối tiếp sinh ra. Như Bảng nhãn họ Nguyễn ở Lan Châu là người đỗ khôi nguyên lúc mới khai quốc, văn chương có tiếng ở đời… (Lịch triều hiến chương loại chí-Phan Huy Chú).
Nguyễn Như Đổ (1424-1526), tên chữ Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, người làng Đại Lan Châu, huyện Thanh Đàm, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam, nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Năm 1424, khi Nguyễn Như Đổ chào đời thì Bình Định Vương Lê Lợi và Nguyễn Trãi đóng đại bản doanh ở làng Đông Phù Liệt, cách làng Đại Lan Châu khoảng 1km để chỉ huy Nghĩa quân Lam Sơn bao vây thành Đông Quan. Bốn năm sau, cuộc kháng Minh toàn thắng, Lê Lợi đăng quang ở Thăng Long, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Được Nguyễn Trãi luôn ở bên cạnh, vua Lê Thái Tổ hiểu rằng, thời loạn dùng võ, thời bình phải dùng văn, vì vậy vua đã xuống chiếu cầu hiền tìm người tài giỏi còn ở ẩn nơi thôn cùng xóm vắng. Năm Đại Bảo thứ 3 (1442) dưới thời Lê Thái Tông, triều đình tổ chức khoa thi Hội đầu tiên của thời Lê Sơ, chàng trai Nguyễn Như Đổ hồ hởi vào kinh ứng thí. Khoa thi đặc biệt này có 450 người dự, được các bậc hiền tài như: Lê Văn Linh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Trần Thuấn Du, Nguyễn Tử Tấn chấm, lấy 33 người trúng cách, Nguyễn Như Đổ đỗ Hội nguyên. Khi vào thi đình, Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Như Đổ đỗ Bảng nhãn, là người mở đầu Bảng nhãn của triều Lê, khi vừa 18 tuổi.
Là người trẻ, học giỏi đỗ cao, mùa đông Quý Hợi (1443) niên hiệu Thái Hòa, ông được cử giữ việc soạn chế cáo ở Viện Hàn lâm, vâng mệnh làm phó sứ sang Minh tạ việc vua Minh phúng Thái Tông mất. Khi về được đổi ra An phủ sứ lộ Quy Hóa, vùng đất Tuyên Quang, Yên Bái ngày nay. Năm Kỷ Tỵ (1449) thăng trực học sĩ. Năm Canh Ngọ (1450) lại sung phó sứ sang Minh.
Vào mùa thu năm Kỷ Mão (1459), ông đi sứ lần thứ ba sang Minh, trong cống phẩm lần này có cả ngọc trai. Ông hiểu nỗi thống khổ của người dân Đại Việt lặn lội nơi biển sâu để tìm ra của quý này, nhiều khi nguy hiểm cả đến tính mạng, “mò ngọc trai thì mặc giao long mà dòng lưng lặn biển” (Bình Ngô đại cáo). Ông đã cùng Lê Cảnh Huy, Hoàng Thanh và Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư biện bạch với vua Minh miễn cho dân ta lệ cống này. Sử cũ không ghi được tài ứng đối của sứ thần nước ta ở Yên Kinh nhưng uy tín và trình độ học vấn của ông được sứ thần Trung Quốc khâm phục.
Lê Quý Đôn viết trong Kiến văn tiểu lục: “Hồi đầu niên hiệu Quang Thuận, Hàn lâm viện học sĩ Tiền Phổ sang sắc phong. Tiền Phổ là người thích tranh luận cho nên thư từ bắt bẻ, việc gì cũng phải ba bốn lần mà nước ta thù ứng phải kính trọng, khen ngợi”. Trước một sứ thần như Tiền Phổ, người tiếp phải có học rộng tài cao, vua Lê Thánh Tông đã giao cho Lê Hoằng Dục (con đô đốc Lê Văn Linh) và Nguyễn Như Đổ đảm trách việc này. Tiền Phổ có thư từ chối lễ vật riêng: “Từ khi phụng mệnh sang sứ đến nay được vua sai cận thần là Lê Hoằng Dục và Nguyễn Như Đổ ở luôn bên cạnh. Hai người này học hành đủ cả, thực đáng là bề tôi tín nhiệm của vua, một ngày không thể rời ra được, thế là vua cho ở luôn để tiện tống lâu đến 12 ngày”.
Năm 1460, Hoàng tử Tư Thành lên ngôi, lấy hiệu là Lê Thánh Tông, vua rất yêu người Nho học, ông được vua yêu dùng, cất lên chức Thượng thư bộ Lại, bấy giờ đã 37 tuổi. Nhiệm vụ của bộ Lại là tuyển bổ quan chức trong triều ngoài trấn. Vua Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý việc này bởi chức quan có tính quyết định đến sự tiến thoái của một triều đại. Ở cương vị mới, ông đuợc Thánh Tông trọng dụng, bổ kiêm Thừa chỉ học sĩ Viện Hàn lâm (người đứng đầu viện), Tả ty sảnh môn hạ, Tả gián nghị đại phu, coi sổ sách quân dân ở Bắc đạo, tiến lên kiêm Thượng thư bộ Lễ (thời Lê, bộ Lễ kiêm cả ngoại giao), đại học sĩ điện Cẩn Đức, tân khách của Thái tử.
Sử ghi, trong 38 năm vua Lê Thánh Tông trị vì, quốc gia Đại Việt sống trong yên bình, các mặt, kinh tế, văn hóa, giáo dục đều phát triển ở mức cao, các đời sau đều lấy đó làm mẫu mực. Trong thành tựu chung này, Nguyễn Như Đổ đã có nhiều cống hiến.
Ngoài những đóng góp xuất sắc trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao, ông còn là nhà giáo dục có tài. Năm Quý Mùi (1463), ông được cử làm độc quyển trong kỳ thi Đình. Đó là một trong hai kỳ thi đông vui nhất của thời Lê Thánh Tông. Sĩ tử về kinh đô dự thi tới 1400 người. Kỳ này lấy Lương Thế Vinh đỗ Trạng nguyên. Sau đó, ông còn được cử làm Đề điệu (chủ khảo) trong hai kỳ thi đình năm 1466 và 1469. Năm 1486, cùng với việc sửa chữa lại Văn Miếu, Nguyễn Như Đổ nhận chức Tế tửu Quốc Tử Giám trong nhiều năm. Là hiệu trưởng trường đại học đầu tiên, ông có điều kiện chăm lo việc học cho học sinh ưu tú trong cả nước. Sử cũ còn ghi một số bản điều trần của ông về cải cách trong khảo xét, tuyển lựa học trò được Lê Thánh Tông ưng thuận.
Nguyễn Như Đổ mất năm 1526, gần nửa thiên niên kỷ đã qua nhưng các đời sau, đời nào cũng nhắc đến ông. Tên ông có trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư và được khắc trên tấm bia đá đầu tiên dựng năm 1484 đặt tại đình bia bên phải trong vườn bia Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đầu thế kỷ XIX, Phan Huy Chú soạn bộ Lịch triều hiến chương loại chí, trong mục Nhân vật chí đã viết về Nguyễn Như Đổ: “Ông, lúc trẻ thi đỗ khôi nguyên, khi lớn thì làm quan to được lên cõi thọ trăm tuổi, trải qua 8 triều, cũng là sự ít có trong hoạn đồ”. Và Phan Huy Chú đã xếp Nguyễn Như Đổ cùng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Trực… là 4 người “phò tá có công tài đức thời Lê Sơ”. Hơn thế nữa, ngày nay chúng ta thấy ông vừa là nhà chính trị, ngoại giao vừa là nhà quân sự, nhà giáo dục có tài năng hiếm có. Ngoài ra ông còn là một nhà văn nhà thơ lỗi lạc. Trong đời Thái Hòa, ông vâng mệnh soạn bài văn bia miếu Lê Khôi, tướng giỏi và là cháu của Lê Thái Tổ, ở núi Nam Giới (nay ở địa giới hai huyện Can Lộc và Thạch Hà, Hà Tĩnh). Tấm bia đá khắc văn của Nguyễn Như Đổ đã bị bom Mỹ phá hủy năm 1964.
Ông còn có tập thơ lưu truyền, đến nay chỉ còn sót lại 6 bài chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Nhà sử học Trần Văn Giáp viết: Trú ở phía Nam thành Thăng Long, ông là một nhà thơ đặc biệt Hà Nội. Dưới đây là hai bài thơ của ông, bản dịch của Nhóm văn học Lê Quý Đôn, in trong Hoàng Việt thi văn tuyển, NXB Văn hóa-1958:
Nhà ở trong vườn phía Nam thành
Nhà dựng Nam thành trải mấy xuân
Đám rau vườn thuốc mở mang dần
Chẳng e lối hẻm liền đường tía
Lại được rào thưa cách bụi trần
Mưa tạnh ếch kêu hồ rộn tiếng,
Cây râm chim hót bóng đầy sân
Trúc hoa sẵn đủ mùi thanh đạm
Mỗi buổi chầu tan hưởng thú bần.
Nhà sử học Trần Văn Giáp viết: Qua bài thơ trên, chúng ta thấy thơ của ông thanh đạm mà phóng khoáng, tả cảnh sắc rất hoạt động. Câu cuối nhắc người ta nhớ đến câu: “Triều hồi nhật nhật điểm xuân y” (Chầu về, ngầy ngày cố áo xuân) của Đỗ Phủ, và cảm thấy ông đã cố gắng học tập cái tinh tế, hàm súc trong thơ Đỗ Phủ. Như bài sau đây chứng tỏ cái ung dung, thích thảng của một người có đạo đức cao quý, tự tin ở mình, coi thường danh lợi:
Chiều xuân ở phòng sách
Nam thành xuân đã muộn
Nhà tranh ván sơ sài
Rêu biếc thềm phủ khắp
Cỏ xanh sân mọc đầy
Khách đến vừa tỉnh mộng
Chim kêu hoa cũng rơi
Thong thả qua ngày tháng
Kinh dịch chấm son mài.
Bài thơ trên có cái tài hoa của con người Hà Nội xưa, đóng góp vào kho tàng văn học viết về Thăng Long-Hà Nội.
***
Dòng họ Nguyễn Như Đổ là “danh gia vọng tộc”của đất Sơn Nam xưa và Hà Nội ngày nay. Cháu ông là Nguyễn Như Huân 37 tuổi đỗ tiến sĩ khoa Mậu Dần (1458), và 18 người khác của họ này đỗ Hương cống, sinh đồ. Hậu duệ Nguyễn Như Đổ hiện sinh sống ở làng Tử Dương, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, ở thôn Trung Quan, xã Văn Đức, huyện Gia Lâm, ở thôn 3, xã Vạn phúc và thôn Phương Nhị, xã Liên Ninh huyện Thanh Trì, ở Ngõ Chợ Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội. Tháng 3/1994, một phố ở cạnh Văn Miếu đã được Hội đồng Nhân dân thành phố Hà Nội đặt tên là phố Nguyễn Như Đổ.