Có người coi viết là một thói quen, để giải trí. Có người lại coi viết là một trạng thái không thể đè nén của cảm xúc, đòi hỏi phải được giãi bày, nhất định phải giãi bày. Viết là một cách để sẻ chia, để giải thoát bản thân khỏi nguồn cơn đau khổ nào đó. Nhưng, có người thì cho rằng viết là cách để truyền tải thông điệp, những quan điểm về đời sống xã hội, những suy nghĩ về lịch sử, văn hóa, con người; những triết lý nhân sinh... dưới góc nhìn của người cầm bút. Dù quan niệm thế nào thì khi tác phẩm hoàn thành, tư tưởng, tình cảm, kiến thức, vốn sống của anh đều lộ thiên.
Vẫn biết những lời tâng bốc cùng với sự đánh bóng một cách có hệ thống của truyền thông có thể đưa tên tuổi của một người cùng với những tác phẩm hạng xoàng lên vị trí cao xa hơn những gì anh ta xứng đáng nhận được sẽ khiến nhiều người hoài nghi và mất niềm tin vào sáng tác.
Nhưng, chúng ta cũng tin tưởng vào sự sàng lọc của thời gian và lời nhắn nhủ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đối với những người cầm bút: “Nhân loại hình như chưa bỏ sót một vĩ nhân nào của mình dù sớm hay muộn cho dù vĩ nhân đó sống trong một ngôi nhà năm mét vuông. Sự lo lắng duy nhất của nhà văn là họ có viết được những tác phẩm thực sự lớn hay không. Ngoài ra mọi sự lo lắng khác không phải là lo lắng đúng nghĩa”.
Hành trình để trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn đầy chông gai, có khi không bao giờ tới đích. Nhưng, những người cầm bút vẫn có thể hi vọng, bởi “những thành công lớn nhất, bây giờ và ngay cả về sau, đều xuất phát từ những giấc mơ”. Vấn đề là làm thế nào để biến giấc mơ thành hiện thực? Có người cho rằng mỗi tác giả cần phải có trong hành trang của mình kiến thức tổng hợp vững chắc, am tường lịch sử mĩ học; có tư tưởng lớn, tâm hồn lớn, có tài năng nghệ thuật lớn và có đóng góp đáng kể cho tiến trình thơ ca...
Có người thì cho rằng “trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức”, “thành công không đến từ năng lực xử lý của trí óc mà đến từ trí tưởng tượng và tính sáng tạo”. Theo đó, đề cao vai trò của cái Tôi cá tính, cái Tôi sáng tạo trong việc sáng tác, tạo nên những tác phẩm vĩ đại, coi “nuôi dưỡng tính cá nhân rất quan trọng vì chỉ có cá nhân mới có thể đưa ra những ý tưởng mới mẻ”... Đó là về mặt lý thuyết, còn việc có thể trở thành một cái gì đó cao siêu hay không thì phụ thuộc vào khả năng của mỗi người.
Con đường văn chương nghiệt ngã. Mỗi người cầm bút phải tự thắp cho mình một ngọn lửa, tìm cho mình một lối đi trên con đường hun hút, tránh dẫm lên dấu chân người khổng lồ để rồi bị lọt thỏm, mờ nhòa và biến mất.
Trong bối cảnh hội nhập với tác động của cuộc cách mạng thông tin và nền kinh tế thị trường như hiện nay, những người cầm bút trẻ được định hướng rõ ràng, xác định tâm thế “hòa nhập chứ không hòa tan”, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại, nhưng cũng phải kế thừa, giữ gìn, phát huy truyền thống dân tộc.
Vẫn biết giá trị cốt lõi của văn chương làm nên sự khác biệt giữa nhà văn này với nhà văn khác chính là sự sáng tạo. Nhưng, dù cho tư duy nghệ thuật có đổi mới đến đâu thì các tác phẩm văn học cũng phải bám sát những vấn đề lớn lao của đất nước, của dân tộc; những vận hội, những biến cố có thể xảy đến của thời cuộc; những ngóc ngách của đời sống xã hội, của thân phận con người. Văn chương phải là tiếng nói đấu tranh với cái xấu, cái ác; chỉ ra cái đúng, cái sai; phải bênh vực lẽ phải, bênh vực kẻ yếu; khơi gợi được lòng trắc ẩn, tình thương yêu, xóa bỏ thù hận giữa con người với con người.
Đích hướng tới của văn chương không chỉ dừng ở việc phản ánh hiện thực mà qua phản ánh hiện thực, nhà văn gửi những thông điệp về tư tưởng, những chuẩn mực về tình cảm, hướng con người và xã hội tới những giá trị chân, thiện, mỹ.