Nhận diện rào cản đổi mới sáng tạo
Kinh tế số Việt Nam tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm, cao gấp 3 lần GDP, song các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đối mặt hàng loạt thách thức về vốn, nhân lực và dữ liệu.
Cần nhân lực công nghệ cao
Ông Nguyễn Phú Tiến - Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế và Xã hội số, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết, kinh tế số Việt Nam đang duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 20% mỗi năm, cao gấp 3 lần GDP và là một trong những nền kinh tế số tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Với khoảng 80.000 doanh nghiệp (DN) công nghệ số, tính riêng doanh thu tháng 10 đạt khoảng 20 tỷ USD (tăng 50% so cùng kỳ 2024).
Ông Nguyễn Bình Minh – Trưởng ban phát triển nguồn nhân lực, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) nhận định, trong giai đoạn tới, ngành thương mại điện tử (TMĐT) sẽ đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng GDP Việt Nam. Để nền kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng 8% vào năm 2025 và hướng đến mức 10% ở các năm sau đó, TMĐT cần đạt tốc độ tăng trưởng gấp khoảng 3 lần so với GDP. Theo đó, nhu cầu tuyển dụng đối với ngành này sẽ tăng từ 30 - 50% do giá trị biên có xu hướng giảm dần.
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, tốc độ phát triển nhanh của TMĐT đang mở ra nhiều cơ hội việc làm và phát triển kinh tế cho Việt Nam.
Trí tuệ nhân tạo (AI) đang làm thay đổi căn bản cách thức vận hành của DN. Thay vì các giao dịch trực tiếp, nhiều hoạt động chuyển sang mô hình số hóa, đòi hỏi nhân sự phải có kỹ năng về công nghệ, đặc biệt là xử lý và phân tích dữ liệu. Nhóm ngành TMĐT và marketing số sẽ cần nhân sự có khả năng quản trị gian hàng, tối ưu hóa chiến dịch bán hàng, nắm vững các nền tảng số.
Ông Minh cũng chỉ ra, những vị trí như chuyên gia tối ưu chuỗi cung ứng bằng AI, chuyên viên tăng trưởng, hay các vai trò kết hợp giữa marketing và công nghệ sẽ ngày càng phổ biến. Tuy nhiên, nếu không kịp thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngành này có thể rơi vào tình trạng thiếu hụt nhân lực và điều này sẽ kìm hãm tăng trưởng.
Theo khảo sát của Hiệp hội DN nhỏ và vừa Hà Nội (HANOISME), có tới 54% SME tại Hà Nội chưa có bộ phận IT chuyên trách, 62% cho biết “không đủ ngân sách” để triển khai chuyển đổi số bài bản. Điều này tạo ra khoảng cách lớn giữa nhu cầu thị trường và năng lực DN.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh kinh tế số, dữ liệu phải trở thành tài sản, song tại Việt Nam, chỉ khoảng 20% DN coi dữ liệu là yếu tố quan trọng trong quản trị, so với 70-80% tại các nền kinh tế phát triển.
Nhận diện rào cản
TS Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký HANOISME thừa nhận, Hà Nội hàng năm chỉ cung cấp khoảng 20.000 – 25.000 nhân lực công nghệ, trong khi nhu cầu lên tới 40.000 – 45.000. Nhiều DN phản ánh tình trạng nhân sự “biết vận hành công nghệ nhưng không biết phân tích dữ liệu”, khiến việc ứng dụng công nghệ chỉ dừng ở mức cơ bản.
“Những rào cản này cho thấy SME tại Hà Nội cần một mô hình hỗ trợ đa tầng, bao gồm chính sách, công nghệ, tài chính, đào tạo – để vượt qua thách thức, bắt kịp xu hướng toàn cầu và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị số” - ông Quốc Anh cho hay.
Còn theo nhận định của Tổng Thư ký Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam Tô Hoài Nam, một vấn đề lớn hiện nay là các DN thiếu kinh phí đổi mới sáng tạo, công nghệ cao và thiếu cơ chế tài chính xanh để khuyến khích DN đầu tư vào mô hình phát triển bền vững.
Ông Nam đề xuất cần hoàn thiện khung pháp lý cho quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư tư nhân (PE), quỹ đổi mới sáng tạo. Cho phép hình thành các quỹ bảo lãnh tư nhân cho đổi mới sáng tạo. Không chỉ bảo lãnh khoản vay, mà bảo lãnh cả rủi ro công nghệ – điều mà SME hiện không thể tiếp cận.
Đồng thời, mở rộng Quỹ bảo lãnh tín dụng nhà nước theo mô hình, Nhà nước đóng vai trò “người bảo trợ cuối cùng”, thực hiện chia sẻ rủi ro có mục tiêu thông qua việc bảo lãnh một phần nghĩa vụ trả nợ, giúp ngân hàng thương mại mạnh dạn cho vay nhưng vẫn bảo đảm kỷ luật tài chính.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Minh Khuê - Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Công ty Cổ phần Công nghệ Sapo, cho rằng chuyển đổi số chỉ có thể thành công khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa khu vực công và khu vực tư.
Từ kinh nghiệm triển khai thực tế, Sapo nhận thấy rằng hiệu quả chuyển đổi số được quyết định bởi sự liên kết của nhiều bên: cơ quan quản lý nhà nước, DN công nghệ, đơn vị vận chuyển, thanh toán, ngân hàng, cùng các hiệp hội và cộng đồng doanh nhân.
"Sự phối hợp này tạo điều kiện để nhiều chương trình quy mô lớn được triển khai nhanh chóng và đồng bộ trên toàn quốc như chương trình hỗ trợ chuyển đổi hóa đơn điện tử, chương trình kinh doanh đa kênh hay các khóa đào tạo TMĐT cho hộ kinh doanh. Đây là minh chứng cho thấy chuyển đổi số không thể là nỗ lực đơn lẻ mà cần sự đồng hành từ nhiều phía để tạo ra giá trị bền vững" - bà Khuê nói.