Nhà thơ Nông Quốc Chấn người dân tộc Tày. Ông là người dân tộc thiểu số đầu tiên “mang hơi thở núi rừng Việt Bắc Bắc vào thi ca”, được coi là cánh chim đầu đàn của nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ông là tác giả các bài thơ nổi tiếng như “Dọn về làng”, “Khâu áo”...
Tôi biết anh vào cuối những năm 1960 ngày tôi ra trường lên nhận công tác trên Khu tự trị Việt Bắc. Mới lên được ít hôm thì đúng dịp kỷ niệm 15 năm Cách mạng tháng Tám, Khu có tổ chức một cuộc triển lãm lớn và tôi được phân công một nhiệm vụ trong triển lãm. Vì có ít nhiều đóng góp nên ngày bế mạc tôi được nhận bằng khen của Ủy ban Khu. Người trao bằng khen cho tôi là anh Nông Quốc Chấn, khi ấy đương giữ chức Phó ban Tuyên huấn Khu ủy kiêm Giám đốc Sở Văn hóa Khu Tự trị Việt Bắc. Mấy hôm sau, khi tôi đang đi trên cầu Gia Bảy thì anh đạp xe đạp đi qua. Thấy tôi, anh như nhận ra và không chờ tôi đến mà anh chủ động quay xe lại nói chuyện. Thì ra anh vẫn nhớ dù chỉ một lần gặp ngắn ngủi hôm bế mạc triển lãm. Tôi ấn tượng với anh từ đó.
Những ngày tôi công tác ở Sở Văn hóa được gần gũi với anh Nông Quốc Chấn nhiều hơn. Dãy nhà nơi tôi làm việc và nghỉ lại đối diện cạnh phòng làm việc của Ban Giám đốc. Tuy là giám đốc nhưng anh Nông Quốc Chấn nhẹ nhàng, thân mật , cởi mở khiến tôi cảm giác không chút xa lạ, nhất là những khi được đi cùng anh xuống các địa phương. Thái độ của anh khiến cấp dưới có thể mạnh dạn thổ lộ tâm tư.
Nhưng tôi cũng chỉ được gần anh ít năm vì anh được Trung ương điều động về làm Vụ trưởng vụ Dân tộc và Miền núi rồi lên Thứ trưởng Bộ Văn hóa. Nhưng sau đó chỉ ít lâu, theo đề xuất của anh, Vụ tổ chức của Bộ đã lên Sở Văn hóa xin tôi về Bộ, công tác ở Vụ Văn hóa miền núi và các dân tộc thiểu số, khi đó trong vụ đã có anh Mạc Phi, anh Bàng Sỹ Nguyên những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, lại thêm anh Tô Ngọc Thanh và Phan Đăng Nhật. Có điều kiện làm việc với anh thường xuyên nên tôi càng có dịp nhận ra những phẩm chất tuyệt vời nơi anh.
Thật hiếm có ai gây được những tình cảm thân yêu với những người cộng tác chung quanh như ở anh. Anh có thể bình tĩnh lắng nghe tâm tình cũng như những băn khoăn, thắc mắc nào đó ở cấp dưới để sau đó có lời khuyên.
Tháng 3/1976, anh Nông Quốc Chấn có chuyến đi khảo sát tình hình văn hóa các dân tộc ở các tỉnh miền Nam, cùng đi với anh có Giáo sư Phan Đăng Nhật và tôi. Khi ở Ninh Thuận, anh Chấn muốn được về ấp Hữu Đức, nơi tập trung cư trú của đồng bào Chăm và để gặp nhà nghiên cứu Chăm nổi tiếng Thiên Sanh Cảnh. Nhưng cơ quan chức năng tỉnh lo ngại tình hình khi ấy vẫn chưa thật ổn, vẫn còn nhóm tàn quân Fulro hoạt động và họ khuyên anh Chấn không nên đi vì sợ không an toàn, và thậm chí họ còn gợi ý hay họ sẽ về để đón ông Thiên Sanh Cảnh lên tỉnh làm việc. Nhưng anh Chấn không bằng lòng với phương án ấy mà vẫn muốn trực tiếp xuống tận ấp với bà con. Anh không muốn cưỡi ngựa xem hoa. Cuối cùng tỉnh phải tổ chức chuyến đi cho anh Chấn. Suốt từ chiều cho đến tận đêm bà con Chăm tổ chức liên hoan văn nghệ để đón đoàn, không khí thôn ấp đông vui như một ngày hội. Đêm ấy, trên đường về, tuy không nói ra nhưng tôi biết anh Chấn rất vui
Năm 1978, Bộ Văn hóa tổ chức hội nghị văn hóa miền núi cho các tỉnh phía Bắc tại xã Yên Bình, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang (cũ). Lý do, nơi đây có phong trào văn hóa cơ sở rất tốt, lại có anh Hoàng Đình Hạp, anh hùng đầu tiên của ngành văn hóa. Đường từ tỉnh về thị trấn Bắc Quang thì dễ vì là tỉnh lộ, nhưng từ km3 Bắc Quang vào thì rất khó đi, lại xa hơn chục km. Rồi phải qua 2 con sông, sông Chừng và sông Bạc. Hôm anh Chấn đến trước để kiểm tra, anh phải đi xe đạp và đi bộ vào. Hai anh em hai xe đạp do phòng Văn hóa huyện bố trí. Đường xấu nên cứ đi vài trăm mét lại phải xuống dắt xe, tôi thì mệt đứt hơi nhưng kì lạ, nhìn anh Chấn thấy anh vẫn như không. Anh là người miền núi nên đã quen đi rừng. Đến đoạn qua sông Chừng thuận lợi vì có mảng thường xuyên chuyên chở người dân quanh vùng. Nhưng khi qua sông Bạc thì khó vì sông nhỏ, nước không sâu nên không cần mảng, người dân cứ vén quần áo qua lại, nước tuy không chảy xiết nhưng nông sâu khó đoán định. Tôi định nói anh nên cẩn thận tìm hỏi người dân địa phương. Nhưng nơi đây lúc này vắng vẻ quá. Anh bảo, ta phải tìm cách qua chứ ở đây chờ người thì có lẽ đêm nay phải ngủ trong rừng. Cuối cùng anh Chấn cởi bỏ quần áo, chỉ còn chiếc quần đùi rồi bảo tôi cứ ở đây trông chừng xe và đồ đạc, rồi anh lội ào ngay xuống sông, dò đường. Anh dò dẫm đi đến giữa sông nhưng nước chỉ ngập ngang người, anh bảo, thế thì đi được, rồi anh còn quay lại dắt tôi qua. Tôi ngoan ngoãn theo anh như đi theo một người cha. Nhìn trực tiếp thấy những cử chỉ chu đáo của một vị Thứ trưởng khiến tôi như muốn ứa nước mắt.
Năm 1975-1976, theo chủ trương của Trung ương sẽ giải thể các khu tự trị. Sau khi cân nhắc và tham khảo những người có trách nhiệm, anh Chấn quyết định xin giữ lại Bảo tàng Việt Bắc, đổi tên thành Bảo tàng Văn hóa các dân tộc; bỏ các nhà xuất bản của từng vùng, thành lập Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc chung cho cả 3 vùng; giữ lại các đoàn văn công Tây Nguyên, Tây Bắc và Việt Bắc, nhưng theo phương hướng mới là đi sâu nghiên cứu và dàn dựng tiết mục dựa theo các nền nghệ thuật của các dân tộc mỗi vùng.
Việc tiếp nhận các đơn vị về Bộ thì đơn giản đối với các trường nghệ thuật và các đoàn văn công, vì đơn vị nào ở đâu vẫn ở nguyên đấy, con người vẫn sẵn, chỉ khác là trực thuộc Bộ. Nhưng khó khăn nhất là Nhà xuất bản. Để đưa được cán bộ từ 3 vùng về Hà Nội là cả một kì công. Tôi là người được giao công việc thu xếp nơi ăn chốn ở cho nhân viên Nhà xuất bản đông tới hơn 20 người. Mọi việc cũng ổn nhưng đến việc nhập hộ khẩu của cán bộ Nhà xuất bản thì quá khả năng. Tôi báo cáo lại, rồi đích thân anh Nông Quốc Chấn phải trực tiếp sang bên công an nhờ giải quyết mọi chuyện ổn thỏa. Nhiều người, thấy khó khăn, phức tạp quá thường khéo léo thoái thác tìm an toàn nhưng anh Chấn thì không. Thấy, nếu là vì lợi ích chung thì anh quyết tâm chỉ đạo làm.
Nhà thơ Nông Quốc Chấn là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh trước tháng 8/1945. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông vẫn tiếp tục hoạt động trong Mặt trận Việt Minh, tham gia Tỉnh ủy tỉnh Bắc Kạn và bắt đầu hoạt động văn hóa văn nghệ. Sau năm 1954, ông tham gia Khu ủy Việt Bắc.
Ông là Đại biểu Quốc hội khoá II, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Khu tự trị Việt Bắc, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên rồi Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Năm 1964, ông là Thứ trưởng Bộ Văn hoá kiêm Hiệu trưởng Đại học Văn hoá, Hiệu trưởng Trường Viết văn Nguyễn Du, Chủ tịch Hội Văn hoá Văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Phó Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Biên tập tạp chí Toàn cảnh sự kiện và dư luận.
Những giải thưởng tiêu biểu của Nhà thơ Nông Quốc Chấn
Giải thưởng Văn học bài thơ "Dọn về làng" tại Đại hội Thanh niên, Sinh viên thế giới ở Berlin, 1951.
Giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam, 1954.
Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, 1958.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II, năm 2000.