Nông nghiệp Việt Nam phát triển mạnh mẽ với những con số gia tăng kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Nhiều sản phẩm lọt vào top xuất khẩu tỷ USD. Tuy nhiên, hướng đến sự phát triển bền vững, nông nghiệp nước ta không thể đứng ngoài hành trình thực hiện cam kết của Việt Nam đưa phát thải ròng bằng 0 (Net Zero).
Điểm mặt những ngành hàng xuất khẩu tỷ USD
Xuất khẩu nhóm hàng nông sản đã liên tục giữ vững phong độ, khi nhiều mặt hàng thường xuyên nằm trong top xuất khẩu tỷ USD, thậm chí là chục tỷ USD. Con số thống kê từ Bộ Công thương cho biết, cà phê, gạo, rau quả... và một số ngành hàng thuộc nhóm nông, lâm, thủy sản luôn nằm trong top đầu kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Đáng chú ý, gạo, rau quả, cà phê là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt tốc độ tăng cao như: Cà phê tăng 39,2% rau quả tăng 27,8%; gạo tăng 23,5%; thủy sản tăng 10,9%... Trong các nhóm hàng xuất khẩu, tốc độ tăng kim ngạch cao nhất thuộc về nhóm hàng nông sản, lâm sản với mức tăng 24,7%.
Có thể khẳng định, với 13 sản phẩm chủ lực như lúa gạo, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, chè, rau quả, sắn, thịt lợn, thịt và trứng gia cầm, cá tra, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ, Việt Nam đã khẳng định vị thế là một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
Việt Nam đã ký kết nhiều Nghị định thư với các quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc, nhằm mở cửa thị trường cho các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Ngày 19/8/2024, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) Việt Nam đã ký kết 3 nghị định thư với Tổng cục Hải quan Trung Quốc, mở đường cho việc xuất khẩu dừa tươi, sầu riêng đông lạnh và cá sấu nuôi sang thị trường này.
Trước đó, Việt Nam cũng đã ký kết các nghị định thư khác với Trung Quốc để xuất khẩu các mặt hàng nông sản như sầu riêng tươi, thạch đen, khoai lang và tổ yến.
Những dữ liệu nói trên cho thấy, trụ đỡ của nền kinh tế - ngành nông nghiệp tiếp tục có những bước tiến mạnh mẽ. Đặc biệt khi hàng loạt sản phẩm nông sản xuất khẩu đã và đang chinh phục được các thị trường khó tính bậc nhất thế giới với những tiêu chuẩn khắt khe như Nhật Bản, Hoa Kỳ, EU, Australia...
Theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam, trong thời gian tới, nhiều loại sản phẩm trái cây sẽ tiếp tục có cơ hội để bước chân vào nhiều thị thị trường tiềm năng trên thế giới, khi thời điểm này, các ngành, cơ quan chức năng tiếp tục có nhiều động thái, nỗ lực để xin cấp "visa" cho một loạt các loại trái cây lợi thế xuất khẩu. Ông Nam cho rằng, với đà này, xuất khẩu nông sản sẽ tiếp tục ghi nhận tỷ lệ tăng trưởng kim ngạch tích cực và có thêm nhiều mặt hàng tỷ USD trong tương lai gần.
Nhận định về quá trình hội nhập của nền kinh tế nước nhà, đối với kinh tế nông nghiệp nói riêng, ông Nguyễn Quang Hiếu - Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NNPTNT) cho hay, việc ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do đã mở ra nhiều cơ hội mới, tạo điều kiện thuận lợi để nông sản Việt Nam tiếp cận các thị trường khó tính.
"Với sự đầu tư mạnh mẽ từ Nhà nước, cùng với nỗ lực không ngừng của các chuyên gia đàm phán và sự cải thiện vượt bậc về chất lượng sản phẩm, nông sản Việt Nam đã sẵn sàng chinh phục những thị trường khó tính nhất. Các chương trình rải vụ, tái canh đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ đó, các cuộc đàm phán đã đạt được nhiều kết quả tích cực, mở ra triển vọng tươi sáng cho ngành nông nghiệp nước nhà” - ông Hiếu nhấn mạnh.
Chú trọng mô hình tăng trưởng mới
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, ngành nông nghiệp Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức. Sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều, khó đáp ứng các yêu cầu về số lượng lớn của thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, quy định của thị trường nhập khẩu thay đổi liên tục, cùng với sự cạnh tranh gay gắt từ các quốc gia khác đòi hỏi ngành nông nghiệp Việt Nam phải đổi mới liên tục. Đáng chú ý, trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về việc sản xuất nông nghiệp xanh - sạch, ít phát thải của các thị trường nhập khẩu "khó tính", bản thân nhà nông, doanh nghiệp (DN) Việt cần phải chủ động, nỗ lực hướng đến nông nghiệp phát thải ròng bằng 0.
Số liệu thống kê của ngành nông nghiệp cho thấy, “trụ đỡ” hiện đang chịu tổn thương nặng nề từ biến đổi khí hậu, đồng thời là nguồn phát thải lớn thứ 2 sau lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Mỗi năm, sản xuất nông nghiệp thải ra môi trường khoảng 80 triệu tấn khí thải CO2 quy đổi, chiếm trên 30% tổng lượng khí nhà kính toàn quốc. Trong đó gần 70% phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp đến từ các hoạt động trồng trọt, 46% là từ hoạt động canh tác lúa nước. Do đó, theo các chuyên gia, ngành nông nghiệp nước nhà không thể đứng ngoài hành trình thực hiện cam kết Net Zero.
Tuy nhiên, theo nhận định của các DN, để có thể hướng đến nông nghiệp Net Zero là cả một hành trình khó khăn và tốn kém. Con số ước tính của Ngân hàng Thế giới cho thấy, Việt Nam cần đến hàng trăm tỷ USD đầu tư cho hạ tầng, cho năng lượng và các hoạt động hướng đến đưa phát thải ròng về mức zero. Song, cho dù tốn kém cũng không thể không làm. Hướng đến phát triển nông nghiệp tuần hoàn để giảm thải metal, hướng tới Net Zero metal vào năm 2050 là yêu cầu bắt buộc để tồn tại, để phát triển xuất khẩu bền vững.
Theo chia sẻ của anh Phùng Minh Hùng - chủ một hộ trồng cà phê tại huyện Cư Kuin (tỉnh Đắk Lắk), ngay từ năm 2018, nhờ học hỏi các mô hình trồng trọt từ nhiều nguồn, anh Hùng đã quyết định thực hành nông nghiệp bền vững thông qua việc canh tác đan xen các loại cây trồng có thể hỗ trợ, bổ sung cho nhau hư cây cà phê, hồ tiêu... Nhờ đó, năng suất và sản lượng đạt cao hơn, giúp bảo vệ đất trồng, tăng cường hệ thống rễ và cô lập carbon trong đất; đồng thời giảm được 50% lượng nước tưới và hoàn toàn không sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ. Có thể thấy, việc thay đổi tư duy trong sản xuất không những giúp anh Hùng nâng cao năng suất mà còn góp phần giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Thực tế, nếu mỗi nông hộ đều chủ động sản xuất giảm phát thải, hay nói cách khác sản xuất hướng đến Net Zero sẽ góp phần không nhỏ vào nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn, hướng đến một mô hình tăng trưởng mới, với mục tiêu cân bằng tỷ lệ carbon trong quá trình sản xuất nông sản.
Tất nhiên, để thực hiện nông nghiệp “Net Zero” ngoài sự chủ động của DN, nhà sản xuất, giới chuyên gia cho rằng, Nhà nước cần đóng vai trò dẫn dắt và trở thành bệ đỡ cho DN, người nông dân.
Về vấn đề này, theo ông Nguyễn Tiến Huy - Giám đốc Văn phòng DN vì sự phát triển bền vững (VCCI), xác định rõ nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp xanh không chỉ là xu thế mà là yêu cầu bắt buộc, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Kế hoạch hành động giảm phát thải khí methane đến năm 2030; Kế hoạch quốc gia triển khai tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất đến năm 2030. Đặc biệt, để hướng tới mục tiêu Net Zero lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Đề án này là một hình mẫu trên thế giới về phát triển nông nghiệp carbon thấp, hướng đến một nền nông nghiệp xanh, bền vững.
Để thực hiện nền nông nghiệp Net Zero thành công, nhiều ý kiến cho rằng, bằng việc thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế tuần hoàn trong chuỗi giá trị nông nghiệp, DN phải tập trung vào bốn trụ cột chính: giảm thiểu khí thải carbon, giảm thiểu dấu chân nước, giảm thiểu ô nhiễm nhựa và giảm thiểu chất thải.
Nông nghiệp “Net Zero” giúp người sản xuất không chỉ tối ưu hóa tài nguyên, giảm phân bón, nước trong canh tác nông nghiệp, sử dụng năng lượng tái tạo, giảm chi phí "đầu vào" mà còn giúp cải thiện hiệu suất, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao về sản xuất nông nghiệp xanh - sạch, ít phát thải mà thị trường đòi hỏi bản thân nhà nông, DN Việt phải chớp lấy thời cơ tiến tới nông nghiệp "Net Zero" nếu không muốn thụt lùi.