Hơn 2 năm trước, nhà quay phim Nguyễn Hữu Tuấn đã gây bất ngờ khi ra mắt cuốn truyện ký “Những thước phim trong suốt”. Khi đó, trong căn nhà nằm ngay trên phố cổ Hà Nội, ông bảo, có tác phẩm còn mong muốn ra mắt hơn, nhưng chưa có cơ hội…
1. Rồi ông cho tôi xem bản thảo cuốn sách đó. Tôi sững sờ khi lật xem từng trang, từng trang bản thảo. Mỗi trang là một bức ảnh đen trắng, được ông viết chú thích cẩn thận. Nét chữ đẹp. Ngoài bìa, ông đặt tên cho tập sách là “Đò ơi…”
Tôi hiểu, đây là một cuốn sách ảnh ông nung nấu đã lâu, chưa có cơ hội ra mắt công chúng. Những câu chuyện qua các bức ảnh của Nguyễn Hữu Tuấn kể cho người ta câu chuyện về một thời chưa xa ở nhiều vùng quê. Xem ảnh của ông, trong mênh mang sông nước, trong gió thốc triền đê, ta văng vẳng đâu đó tiếng gọi đò da diết. Và cùng với tiếng gọi mênh mang ấy, là phận người, phận đời…
Nguyễn Hữu Tuấn là nhà quay phim, là NSND nổi tiếng. Tên ông đứng sau máy quay những bộ phim đã trở thành kinh điển của điện ảnh Việt Nam như “Thương nhớ đồng quê”, “Hi vọng cuối cùng”, “Hoa ban đỏ”, “Bến không chồng”… Xen kẽ các đợt đi làm phim là những chuyến đi dã ngoại tìm bối cảnh của ông. NSND Nguyễn Hữu Tuấn đã rong ruổi tới nhiều nơi trên dải đất hình chữ S. Đi đến đâu ông có sở thích chụp ảnh đến đấy. Vì thế, bây giờ, sau khi những ồn ào chao chát ở lại phía sau, tài sản 40 năm chụp ảnh là hàng chồng hộp ảnh xếp đầy trong các căn phòng của ông.
Ông tâm sự, mấy mươi năm đi chụp ảnh nông thôn, mọi người hay hỏi tôi: “Chụp cái gì thế?”. Chưa kịp trả lời lại bồi thêm câu nữa “Để làm gì thế?”. Lúc ấy tôi thường ú ớ, nói dối quanh. Chẳng nhẽ lại bảo: “Chụp cái tôi nhìn thấy”. Thực ra tôi còn muốn chụp cả những gì nghe thấy, ngửi thấy nữa. Những cánh đồng, con người, tiếng nước chảy, mùa rơm rạ… tất thảy đều gây cảm xúc cho tôi. Tôi chỉ chụp theo tiếng gọi của nó. Không vì cái gì khác, không theo kỳ vọng của ai.
NSND Nguyễn Hữu Tuấn kể rằng, mỗi khi đi chụp ảnh nông thôn, ông đặc biệt yêu thích chụp ảnh những bến đò. Bến đò trong ảnh của ông không chỉ là phong cảnh mà đằng sau nó là những chuyện đời, chuyện người. Để rồi sau rất nhiều năm góp nhặt, ông đã gói gọn những hình ảnh ấy vào cuốn sách “Tiếng gọi đò” (do Omega Plus phát hành).
“Tiếng gọi đò”, theo như chia sẻ của họa sĩ Trịnh Lữ - một người bạn thân của NSND Nguyễn Hữu Tuấn, thì cái tựa sách ấy đến khá tình cờ. “Tôi có cơ may được NSND Nguyễn Hữu Tuấn tham vấn ngay từ khi ông thai nghén cuốn sách này, cách đây cũng đã 3-4 năm. Lúc đầu ông đặt tên sách là “Đò ơi”.
Chả biết dịch cái tên ấy thế nào cho đúng, mà thấy ông chọn ảnh và viết lời thì rõ ràng là để kể câu chuyện về cuộc sống ở những bến đò quê hương mình, một cuộc sống rất lâu đời, rất Việt Nam, nay đang dần biến mất để chỉ còn là ký ức đáng được lưu giữ, nên tôi mới gợi ý gọi cuốn sách là “Chuyện con đò”, sang tiếng Anh là “Ferry Boat Story”.
Ông đồng ý ngay cái tên tiếng Anh ấy. Còn tiếng Việt thì ông đặt là “Tiếng gọi đò”. Hay hơn hẳn: nó khiến ta nghe thấy tiếng người trong tiếng gió, tiếng sóng. Gợi ngay được quang cảnh sông nước mênh mang, với màu sắc và không khí ở mỗi thời khắc trong ngày, trong mùa…”, họa sĩ Trịnh Lữ chia sẻ.
2. Tôi muốn dừng lại một chút để nói về “Tiếng gọi đò” - cuốn sách đầu tiên của NSND Nguyễn Hữu Tuấn về chủ đề nhiếp ảnh. Gói gọn trong 148 trang, cuốn sách giới thiệu 85 bức ảnh chọn lọc từ hàng ngàn bức đã chụp trong hơn 30 năm, từ 1987 đến 2018. Nội dung sách được chính tác giả phiên dịch sang cả tiếng Anh với hi vọng bạn bè quốc tế cũng có thể đón nhận. Toàn bộ ảnh được in với hai sắc đen trắng gợi không khí hoài cổ.
Lật dở cuốn sách, bạn đọc như được lên một chuyến đò trở về với những miền ký ức đẹp trong các bức ảnh của ông. Chú thích trong sách hầu như là chữ viết tay của tác giả; chỉ cho ta thấy ảnh ấy chụp ở đâu, khi nào. Ông đã tìm đến những bến đò truyền thống quen thuộc của dân cư Bắc bộ, như bến đò Đông Trù (Hà Nội), bến đò Nương (Hiệp Hòa, Bắc Giang), bến đò Vân (Bắc Ninh)... Ở đó, những câu chuyện riêng tư, những tâm tình ấp ủ, những lời qua tiếng lại, những tin đồn hay những giai thoại dân gian, cứ thế hiện ra rõ nét. Tất cả đều xoay quanh những bến sông, bến đò, những dòng chảy trôi nơi làng quê Việt.
Điều ấn tượng trong những bức ảnh của NSND Nguyễn Hữu Tuấn đó là ống kính của ông luôn hướng về những người phụ nữ. Hơn 80% những bức ảnh trong những bến đò của ông chụp về người phụ nữ ở nông thôn. Càng chụp ông càng gặp nhiều phụ nữ ở chợ lao động, bến sông, chợ dân sinh, những lúc nắng hay cả những ngày mưa họ đều xuất hiện.
“Tôi luôn thấy họ đẹp, và tôi yêu những con người đó. Cũng như tôi đã đi qua nhiều vùng quê Việt Nam, chụp ảnh về những con người, những ngôi làng… Tôi thấy, không có nơi nào đẹp hơn đất nước chúng ta bởi chính những con người bình dị đó”, NSND Nguyễn Hữu Tuấn chia sẻ.
Mặc dù sách ảnh là chủ yếu nhưng cuốn sách lại cuốn hút từ đầu đến cuối trang sách bởi lối viết dung dị, dí dỏm và sâu sắc của ông. Những bến đò và con người ở đó mang vẻ đẹp của thời gian và ký ức, những nỗi niềm chung của những người con xa quê trước sự biến đổi nhanh chóng của làng; gợi cho ta nhiều suy ngẫm về cuộc sống hôm nay.
Đến một ngày, những bến đò, bãi sông sẽ chỉ còn trong ảnh. Cuộc sống đi lên và những bến đò sẽ được thay thế bằng những chiếc cầu, dần thiếu vắng tiếng ai gọi “đò ơi, chờ với…”. Những bức ảnh của NSND Nguyễn Hữu Tuấn rất giá trị, cùng thời gian nó sẽ là nhân chứng cho mai sau…
3. Cuốn sách chỉ toàn ảnh đen trắng. Theo họa sĩ Trịnh Lữ, không phải là thứ màu đen nghèo nàn chết chóc mà các họa sĩ trường phái ấn tượng đã loại bỏ khỏi bảng màu hội họa từ đầu thế kỷ 20. Một màu đen mà tôi đoán là chỉ có phim nhựa hạng nhất mới có. Thực ra, ở phiên bản phác thảo của sách này, tác giả đã dùng toàn ảnh gốc in tráng kiểu cổ điển, đính vào các trang sách như các album ảnh kỉ niệm gia đình ngày xưa. Nhưng khi quyết định làm sách in để có thể đến tay đông đảo bạn đọc, việc làm chế bản chắc chắn đã phải rất khắt khe để có được những trang in đen trắng như thế này.
Nhưng cuốn sách không chỉ có ảnh. Tôi thích những chú thích của NSND Nguyễn Hữu Tuấn. Ông là người kỹ tính, chữ viết tay lại đẹp, nên tất tật chú thích ảnh trong sách ông tỉ mẩn viết tay. Theo họa sĩ Trịnh Lữ, NSND Nguyễn Hữu Tuấn dùng một loại bút mực có ngòi như bút lông, khiến những hình ảnh ấy như phập phồng hơi thở.
Chú thích của ông phần lớn cũng chỉ cho ta thấy ảnh ấy chụp ở đâu, khi nào. Nhưng nhiều khi ông không nhịn được, phải thêm vài lời mô tả và ngẫm nghĩ nữa, ví dụ như “Sông Đáy mùa xuân, nước dâng cao chảy xiết, đò không qua được. Mọi người lập cầu đi tạm. Mỗi lần qua sông là một lần mạo hiểm. Đến bờ, người, xe không ngã là may”.
Nhà nghiên cứu, họa sĩ Phan Cẩm Thượng nhận xét rằng, tập sách ảnh “Tiếng gọi đò” của nhà nhiếp ảnh Hữu Tuấn tập hợp những bức ảnh chụp bến đò, con đò, sinh hoạt sông nước ngoài Bắc, trong Nam trong ba thập niên 1980, 1990 và 2000. Đây là thời kỳ giáp ranh, chuyển đổi giữa nếp sống và kỹ thuật truyền thống với xã hội hiện đại, có sự xuất hiện của cơ giới hóa, và bến phà, cầu đường mới. Tùy từng nơi mà con đò cổ được bảo lưu, nhưng có thể nói đến những năm 1990, thì đò chèo tay đã dần vắng bóng, thay vì đò chạy máy, nhưng làng quê, bến nước, con đò vẫn còn nhiều hình ảnh gợi nhớ quá khứ xa xưa của người Việt.
“Bến đò, tiếng gọi đò, người dân đi lại qua sông là phần hiện hữu của văn minh lúa nước Việt Nam trong quá khứ, còn kéo dài đến bây giờ, dù tính chất của con đò và bến đò bây giờ cũng đã rất khác, ngay cả canh tác nông nghiệp cũng thay đổi hoàn toàn, làng xã cổ truyền cũng tan vỡ theo nhiều nghĩa. Chính những bức ảnh này làm người ta nhớ nhung, đôi khi lưu luyến một quá khứ không lặp lại - một kỷ niệm của bất kỳ ai từng đi đò, chờ đò và sống trong sự yên bình của làng xã sông nước Việt”, nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng nhấn mạnh.
Nhà quay phim-NSND Nguyễn Hữu Tuấn sinh năm 1949 tại Hà Nội. Năm 23 tuổi, ông quyết định thi vào Trường Điện ảnh Việt Nam, bắt đầu một sự nghiệp nghệ thuật đầy ấn tượng trong vị trí quay phim, người cộng tác của nhiều cá tính đạo diễn.
Ông đạt giải dành cho quay phim tại LHP Việt Nam lần VI năm 1983 với hai tác phẩm: “Hy vọng cuối cùng” (1981) và “Thị xã trong tầm tay” (1983).
Một số bộ phim tiêu biểu ông phụ trách hình ảnh: Duyên nợ (1987), Anh và em (1988), Chuyện tình trong ngõ hẹp (1992), Trở về (1994), Thương nhớ đồng quê (1995), Bến không chồng (2000), Lạc lối (2013).
Bên cạnh đó, ông còn được mời tham gia nhiều dự án phim hợp tác với nước ngoài thực hiện tại Việt Nam như: Đông Dương (1992), Người tình (1992), Người Mỹ trầm lặng (2002), Hai con gái ông chủ vườn thuốc Trung Hoa (2006).