Báo Đại Đoàn Kết Giám sát - Phản biện

Nuôi biển công nghiệp trong chiến lược tăng trưởng xanh

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Nuôi biển công nghiệp trong chiến lược tăng trưởng xanh

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News
Nuôi biển công nghiệp trong chiến lược tăng trưởng xanh
Lồng nuôi cá tại biển Bình Thuận. Ảnh: H.L

Trong hướng đi tất yếu của phát triển kinh tế biển bền vững, nuôi biển công nghiệp không chỉ giúp Việt Nam khai thác hiệu quả tiềm năng biển, mà còn góp phần quan trọng vào chiến lược tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống cộng đồng ven biển. Đó là nền tảng để xây dựng kinh tế biển bền vững.

Chưa theo kịp nhu cầu thị trường

Về những lợi thế, PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam cho biết, hiện Việt Nam ta sở hữu hơn một triệu km² vùng đặc quyền kinh tế và 3.260 km đường bờ biển và nằm trong nhóm quốc gia có nhiều vũng, vịnh kín gió thuận lợi nhất châu Á để phát triển nuôi biển công nghiệp. Tuy nhiên, theo ông Dũng, những lợi thế này vẫn chưa được chuyển hóa thành năng lực sản xuất tương xứng. Hiện nghề nuôi biển diễn ra tại 21 tỉnh ven biển nhưng vẫn tập trung ở vùng ven bờ, nơi mật độ lồng bè dày, còn manh mún, tự phát, rủi ro môi trường lớn, cũng như thiếu nền tảng thể chế, công nghệ để phát triển bền vững.

Trong khi đó theo giới chuyên gia kinh tế, khi mà nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên suy giảm ngày một mạnh, do vậy mà xu hướng trên thế giới, họ đang chuyển từ khai thác sang nuôi trồng ngày càng rõ rệt, để nhằm phục vụ nhu cầu thực phẩm biển liên tục tăng. Và dù chiếm tới 71% diện tích bề mặt trái đất, nhưng nuôi biển chỉ đóng góp chưa đến 0,5% sản lượng thực phẩm toàn cầu. Việt Nam có điều kiện tự nhiên để nắm bắt xu thế này nhưng tốc độ phát triển còn chậm, chưa theo kịp nhu cầu thị trường và yêu cầu hội nhập.

Còn theo giới chuyên gia môi trường, khu vực xa bờ sạch hơn ít có nguy cơ bị ô nhiễm và có tiềm năng phát triển quy mô lớn mới, nhưng chỉ có 27 cơ sở được đầu tư. Nguyên nhân chính là thiếu cơ chế giao khu vực biển dài hạn, khiến doanh nghiệp (DN) không dám đầu tư lồng công nghệ cao hay hạ tầng biển khơi. Và quy mô nhỏ lẻ khiến nuôi biển khó phát triển đúng tầm và dễ tổn thương trước ô nhiễm hay sự cố tảo độc. Nếu không sớm thay đổi phương thức tổ chức sản xuất và hoàn thiện thể chế, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội đưa nuôi biển trở thành một trụ cột quan trọng của kinh tế xanh.

Phát triển các cụm công nghiệp nuôi biển

Giới chuyên gia nhận định, phát triển các cụm công nghiệp nuôi biển sẽ là giải pháp đột phá đưa nuôi biển Việt Nam thoát khỏi tình trạng thủ công, manh mún và tiến tới sản xuất quy mô lớn. Giới chuyên gia phân tích, với bờ biển dài 3.260 km, hơn 3.000 đảo và vùng đặc quyền kinh tế rộng 1 triệu km², chỉ cần sử dụng 0,1% diện tích biển, chúng ta đã có 1.000 km² để nuôi, cho sản lượng tới 10 triệu tấn cá biển mỗi năm, chưa kể các loại hải sản khác. Nhưng hiện nay, nghề nuôi biển vẫn dựa vào kinh nghiệm truyền thống, công nghệ lạc hậu, thiếu chuỗi liên kết và chưa có hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn đồng bộ.

Đồng quan điểm, PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam chia sẻ, con đường tất yếu là chuyển sang nuôi biển công nghiệp, mở rộng ra vùng biển mở và xa bờ với các hình thức nuôi trong lồng bè, lồng chìm, tàu nuôi biển hay các ao ven biển.

Tuy nhiên, chỉ thay đổi vật liệu lồng là không đủ để thay đổi bản chất của phương thức nuôi thủ công. Điều Việt Nam cần là một mô hình tổ chức sản xuất mới, chính là cụm công nghiệp nuôi biển. Theo PGS.TS Dũng, thì đây là mô hình DN được Nhà nước hỗ trợ đầu tư hạ tầng, sau đó cho các DN, hợp tác xã và ngư dân thuê để sản xuất. Cách làm này giúp hình thành ngành nuôi biển quy mô lớn, thu hút ngư dân vươn ra xa bờ, xây dựng chuỗi giá trị có sản lượng và chất lượng ổn định, tạo nền tảng tích hợp nuôi biển với du lịch, điện gió ngoài khơi và các lĩnh vực kinh tế biển khác. Đồng thời, sản xuất tập trung cũng góp phần gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ chủ quyền biển đảo.

Đại diện Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, nuôi biển theo hướng cụm công nghiệp chính là trụ cột trong chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững, giảm áp lực khai thác ven bờ, gia tăng giá trị xuất khẩu và khẳng định vị thế Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Và để thực hiện theo hướng đi này, ngành phải tổ chức lại theo chuỗi giá trị khép kín; từ nuôi, thu hoạch, bảo quản, chế biến sâu đến tiêu thụ… Song song với đó là cách tiếp cận đa ngành, kết hợp nuôi biển với du lịch, năng lượng tái tạo, vận tải biển hay bảo tồn sinh thái, tối ưu tài nguyên và giảm xung đột không gian.

Theo PGS.TS Thái Thanh Bình -Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật và thủy sản, để chuyển sang quy mô nuôi biển cụm công nghiệp, nuôi xa bờ, thì bắt buộc phải ứng dụng công nghệ hiện đại và gắn liền với chuỗi giá trị toàn cầu. Hiện ở các nước, khái niệm “nuôi cá bằng máy tính” đã thành hiện thực, người ta có thể ngồi trong bờ để điều khiển nuôi cá ngoài biển với mô hình cụm công nghiệp nuôi biển. Và trong thời gian tới, Việt Nam cũng phải phát triển mạnh mô hình này.

Các địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh, Phú Yên… cần có DN tiên phong và các cơ sở đào tạo sẵn sàng thử nghiệm. Có như vậy mới đủ sức cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Minh Quân