Nuôi tôm càng xanh trong ao

B.T. 12/07/2017 08:05

Ao nuôi tôm càng xanh thường được xây dựng ở vùng gần kênh rạch nơi có thể trao đổi nước dễ dàng có thể bằng thủy triều hay máy bơm. Đặc biệt là không bị nhiễm bẩn bởi chất thi công nghiệp hay hóa chất trong nông nghiệp. Hầu hết các khu vực nước ngọt ở Nam Bộ (trừ các vùng bị nhiễm phèn) đều có thể nuôi tôm càng xanh tốt.

Nguồn giống

Có hai nguồn giống tôm càng xanh chính ở khu vực Nam Bộ là giống tự nhiên và giống nhân tạo. Hiện nay, nguồn giống tự nhiên vẫn còn chiếm vai trò quan trọng trong các mô hình nuôi tôm càng xanh nhất là ở khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, hai loại giống này có các ưu và nhược điểm riêng.

Khi thả nuôi, tôm giống tự nhiên cần phân nhóm theo kích cỡ (3-5g, 6-8g và 9-12g). Mục đích phân cỡ là giảm hiện tượng ăn nhau và tranh giành thức ăn trong quá trình nuôi.

Kích cỡ ao nuôi

Ao thường có hình chữ nhật, kích thước thích hợp và phổ biến là 0.2-0.6 ha. Mức nước thích hợp từ 0.7-0.9m. Bờ ao phải chắc chắn, không rò rỉ, không hang hốc làm nơi trú ẩn cho các sinh vật hại tôm. Mặt bờ rộng ít nhất là 2m nhằm giúp cho việc đi lại chăm sóc tôm thuận lợi. Độ nghiêng đáy ao từ 3-5%.

Cống: Mỗi ao nuôi cần ít nhất là một cống (cống gỗ hay cống xi măng dạng lỗ hay dạng ván phay). Nếu hai cống thì đặt một đường cống cấp, một cống tiêu về 2 phía của ao nuôi. Kích thước cống tùy thuộc vào kích thước ao nuôi cũng như khả năng trao đổi nước cho ao vào mỗi cao nước cường (cống phải trao đổi từ 20-30% lượng nước ao nuôi vào mỗi lần nước cường).

Những ao diện tích nhỏ hơn 500m2 có thể đặt 1-3 cống lỗ xi măng hay cống bọng dừa với đường kính 20-30 cm.
Bơm: máy nhỏ di động cũng rất cần thiết cho ao nuôi tôm, máy bơm giúp trao đổi nước ao theo định kỳ hay vào những lúc nước ao bị dơ bẩn.

Thả giống nuôi

Tùy theo kích cỡ giống và cách thức nuôi (nuôi đơn hay nuôi kết hợp) và mức độ thâm canh mà mật độ thả có khác nhau.
Trong nuôi đơn: tôm càng xanh giống tự nhiên (3-5g/con) có thể thả ở mật độ 4-6 con/m2, còn với tôm giống nhân tạo cỡ (0,5g/con) thì thả 10-15 con/m2.

Trong trường hợp nuôi kết hợp với cá (như chép, rôphi, mè trắng, mè vinh...) thì mật độ thả từ 2-3 con/m2 đối giống tự nhiên, và 8-10 con/m2 đối với giống nhân tạo. Mật độ thả cá dao động từ 2-3con/m2 tính chung cho các loài cá.
Hiện nay, trong nuôi tôm càng xanh việc thả giống đơn tính (toàn đực) cũng đang được chú ý bởi lẽ tôm đực lớn nhanh và cho sản lượng cao.

Tôm càng xanh.

Quản lý ao nuôi

Thức ăn và cho ăn: có thể sử dụng 2 dạng thức ăn đó là thức ăn viên và thức ăn tươi sống. Mặc dù, hiện nay thức ăn tươi được dùng chủ yếu nhưng thức ăn viên hay thức ăn tự chế bổ sung cho tôm càng xanh cũng rất quan trọng nhằm bổ sung các vật chất cần thiết cho tôm. Nói chung, do việc nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh nghĩa là thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan trọng nên cần dùng thức ăn có hàm lượng đạm từ 25-30%.

Khi cho tôm ăn cũng cần dựa vào một số yếu tố khác bên cạnh việc ước lượng theo đàn tôm trong ao để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp như căn cứ vào chất lượng môi trường ao nuôi, ao dơ hay những ngày mưa lớn nên hạn chế lượng thức ăn; kết hợp sàng ăn và rãi thành nhiều điểm trong ao để có thể đánh giá đúng thức ăn tôm sử dụng; cho tôm ăn hơi thiếu vẫn tốt hơn là thừa.

Tôm ăn thức ăn là do mùi (cơ quan xúc giác râu a1 và a2) chứ không phải thấy. ở giai đoạn nhỏ (1 tháng đầu sau khi thả) tôm bắt được thức ăn qua bơi lội và hầu hết là thức ăn tư nhiên. Giai đoạn này cơ quan xúc giác phát triển chưa đầy đủ nên chúng chưa thể tìm mồi tốt, thức ăn cần rãi khắp ao, cũng có thể trộn thức ăn chế biến và tươi sống để gây mùi.

Các giai đoạn tiếp theo cơ quan thính giác của tôm phát triển hòan chỉnh và tự đi tìm thức ăn được nên có thể cho tôm ăn ở những điểm nhất định trong ao.

Theo dõi tăng trưởng và tình trạng sức khoẻ tôm: do đặc tính của tôm lớn lên là nhờ lột xác và chu kỳ lột xác tuỳ thuộc vào kích cỡ và điều kiện môi trường sống. Kể từ 1,5 tháng tuổi trở đi, hàng tuần phải theo dõi sự sinh trưởng (tính đồng đều) của tôm bằng sàng ăn, chài và kết hợp với chu kỳ lột xác để có thể kích thích tôm lột xác đồng loạt và thay đổi thức ăn và khẩu phần ăn phù hợp.

Môi trường ao nuôi

Hàm lượng oxy hòa tan: trong ao nuôi tôm hay trong ao nuôi thủy sản nói chung thì lượng oxy hòa tan trong nước có được do quá trình quang hợp của tảo, xâm nhập từ không khí vào và trao đổi nước ao. Tuy nhiên, lượng oxy trong ao thường không ổn và dao động lớn giữa ngày và đêm. Trong ao oxy mất đi là do sự hô hấp của tôm cá, to vào ban đêm và quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ. Oxy hòa tan trong ao phải lớn hơn 3,5mg/l.

Duy trì tốt lượng oxy trong ao có thể là nhờ quá trình trao đổi nước thường xuyên, mặt ao thoáng giúp cho quá trình khuếch tán oxy từ môi trường không khí vào dễ dàng nhờ sóng gió và cần lưu ý điều chỉnh lượng phiêu sinh vật trong ao để tránh không cân bằng oxy giữa ngày và đêm (theo màu nước).

Quản lý pH nước ao: trong ao nuôi pH luôn luôn có sự biến động theo sự nở hoa của to (pH tăng cao khi to quang hợp mạnh) và sự phân hủy các hợp chất hữu cơ ở đáy ao (pH thấp tầng đáy), do mưa rửa phèn từ bờ ao xuống hay nguồn nước bị nhiễm phèn (pH thấp).

Phương án xử lý là thay nước hay sử dụng vôi điều chỉnh sự thay đổi pH nước trong ao. Dùng vôi với lượng 8-10kg/10m2, xử lý phần xung quanh ao trước những cơn mưa lớn nhằm tránh sự rửa trôi phèn từ bờ vào ao. Đo pH nước sau khi mưa. Nếu pH nước xuống nhỏ hơn 7 thì dùng vôi với lượng 1-1,5kg/100m2 pha với nước tạt khắp ao để nâng pH nước.

Quản lý độ đục và độ trong của nước ao: sau những cơn mưa; nguồn nước lấy vào ao chứa nhiều hạt phù sa làm nước vẫn đục hay sự phát triển quá mức của tảo có thể gây trở ngại đối với tôm nuôi. Có thể làm cho nước trong ao trở nên trong lại bằng cách dùng vôi pha nước và tạt khắp ao để lắng tụ các hạt mùn bã (1kg/100m2).

Độ trong của ao thấp thì cần phải thay nước và giữ trong phạm vi 25-40 cm, nếu độ trong thấp, màu nước vẫn đục thì thay 20- 30% và điều chỉnh lại lượng thức ăn sử dụỹng. Ao có màu nước sẫm và trong thì phải thay nhiều nước, và phải bón vôi 5-10 kg/ 1.000m3, trường hợp độ trong vượt quá 40 cm thì phải bón thêm phân hữu cơ, hoặc vô cơ để tăng màu nước (10- 15 kg/100m2 phân heo, gà).

Quản lý các khí độc: quá trình phân hủy các chất thải của tôm, thức ăn thừa, chất hữu cơ từ ngoài vào, tảo chết...sẽ tạo nhiều chất dinh dưỡng cho ao và cũng tạo nhiều khí độc khác có tác hại đối với tôm mà chủ yếu là khí ở tầng đáy như H2S, NH3, NO2-.
Quản lý các yếu tố này qua trao đổi nước tích cực sẽ giúp loại bỏ các chất khí độc này ra khỏi ao nhất là tầng nước dưới đáy ao.

Thu hoạch

Việc thu hoạch thường được tiến hành một lần vào cuối vụ hay thu tỉa. Công tác thu tỉa rất quan trọng là có thể thu tôm lớn 3 lần trong vụ nuôi. Thu tỉa có thể tiến hành sau 4 tháng nuôi và mỗi 6 tuần thu 1 lần. Thu tỉa thường bằng chày hay kéo lưới...

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Nuôi tôm càng xanh trong ao