Người nước ngoài đến Việt Nam hoạt động thương mại, một số đã viết sách về những tháng kinh doanh buôn bán tại nước ta. Samuel Baron, đại diện Công ty Đông Ấn - Anh tại Việt Nam từ năm 1685, đã viết khá kĩ lưỡng điều đó trong cuốn sách “Mô tả Vương quốc Bắc Kỳ” (Desription du royaume du Tonkin).
Phố Hàng Chiếu (Hà Nội) cuối thế kỷ XIX. Ảnh: TL.
Cuốn sách của Samuel Baron có đoạn như sau (kinh đô Thăng Long được gọi là Cacho (Kẻ Chợ):
“Kẻ Chợ cách biển bốn mươi dặm, có thể được so sánh về diện tích của châu Á, nhưng hơn hẳn phần lớn các thành phố này về số dân. Ngày mồng một và ngày rằm âm lịch mỗi tháng diễn ra tại đây một phiên chợ khổng lồ lôi cuốn một lượng người đông không tưởng tượng nổi. Mỗi mặt hàng có một đường phố riêng, được phân cho một hay nhiều làng và chỉ những người thuộc các làng này mới có quyền mở một cửa hàng hoàn toàn theo kiểu các phường hội hay hiệp hội của châu Âu. Ngày họp chợ dân chúng chen lấn đông đến độ trong nửa giờ đi được một trăm bước đã là nhiều lắm rồi” (trích trong “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX” xuất bản tại Pháp, được dịch và Nhà Xuất bản Thế giới phát hành tại Việt Nam năm 2014”, trang 321).
Cùng với hàng ngoại, hàng trong nước có đồ gốm Bát Tràng và Thổ Hà, lụa the rất thưa và nhẹ ở Kim Bảng, tơ lụa dệt sợi chắc hơn ở Thanh Oai, hàng nhuộm ở Huê Cầu…, và còn những mặt hàng từ nghề thuộc da do Nguyễn Thới Trung đi sứ Trung Quốc vào khoảng năm 1527 - 1529 nhập về, ông được nhiều làng ở Hải Dương suy tôn làm tổ nghề, nghề chế biến lượt là do Phùng Khắc Khoan du nhập vào cuối thế kỷ XVI, nghề khảm sà cừ trên gỗ do Nguyễn Kim sáng chế, nửa sau thế kỷ XVIII… Sản phẩm đôi khi khắc tên nghệ nhân, một điều khá hiếm ở đất nước ta, nơi công trình nghệ thuật thường là vô danh.
Một số sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích đến mức từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19 các xưởng của Nhật Bản đã sản xuất những chiếc bình bắt chước kiểu bình của Giao Chỉ. Giao Chỉ là Việt Nam, trích trong sách “Les poteries de Giao Chi” (Đồ gốm Giao Chỉ) của A.Silice, trang 527.
Qua các sách nước ngoài viết về sản xuất kinh doanh ở Việt Nam, dân số gia tăng nhu cầu của người tiêu dùng cũng gia tăng,ngành nghề thủ công được đa dạng hóa kéo theo nhu cầu về nguyên vật liệu, ngành đóng tầu thuyền mở mang, sự kích thích của ngoại thương đã thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển ở nước ta vào các thế kỷ 17 và thế kỷ 18. Cạnh tranh đã khuyến khích các ngành, nghề không ngừng cải tiến để tranh thủ khách hàng vì tàu nước ngoài cập bến mang hàng ngoại ngày càng tăng.
Cuối hồi ký “Xứ Đông Dương” của Paul Doumer, Toàn quyền xứ Đông Dương từ năm 1897 đến năm 1902 đã có một số trang đánh giá cao hàng hóa nước An Nam và những người thợ thủ công An Nam đã làm ra những hàng đó với sự cảm phục chân thành. Tác giả từng là Chủ tịch Thượng viện Pháp rồi là Tổng thống Pháp.
“Xứ Đông Dương” gồm năm xứ” Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên, một chiến lược thâm độc: chia đế trị - Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” hơn 600 trang in lần đầu năm 1905, được dịch và phát hành tại nước ta năm 2016. Xin trích đoạn dưới đây:
“Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng,đúc kim hoàn, thợ men huyền (trong tự điển ghi là “thợ khảm men huyền” thực tế là thợ khảm hoặc dát vàng bạc), thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc.
Dầu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó, những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ. Xưa kia những đồ vật bằng đồng thau gần như độc quyền dành cho tín ngưỡng quốc gia, bàn thờ tổ tiên, trang trí các ngôi chùa. Ngày nay một phần đã tìm đến khách hàng châu Âu.
Các thợ kim hoàn thì ngược lại hình như họ cải tiến, hoàn thiện nghệ thuật của mình khi làm việc cho khách người Pháp. Một trong số họ tên là Lê Thân, là một nghệ nhân tài hoa, ông vẽ mẫu rất đẹp và chế tác cũng rất tài.
Các thợ thêu trên hoa làm việc với một kỹ thuật không thể sánh được. Về việc chăm chút và hoàn thiện công việc đồ thêu ở Bắc Kỳ được làm tinh hơn đồ của Nhật Bản và Trung Hoa. Thành công rực rỡ của người An Nam là nghệ thuật khảm trai trên gỗ. Họ đã khiến cho những bộ tủ chè và những thứ đồ gỗ nhỏ khảm trai như vậy của vùng này trở nên thực sự đáng chú ý và nổi danh ở vùng Viễn Đông.
Những thợ khảm trai Trung Hoa, những người hình như đã truyền nghề của mình cho dân An Nam thì còn lâu mới sánh ngang hàng được với học trò của mình. Đồ khảm trai của Bắc Kỳ được khảm trên gỗ tốt, thuộc nhóm “thiết mộc” (bois de fer,gỗ sắt) thường gọi là gỗ trắc. Gỗ trắc là một loại có thớ, rất chặt, một độ cứng điển hình.
Dụng cụ của thợ đóng đồ gỗ quý và thợ mộc Pháp sẽ bị cùn nhụt vì gỗ trắc. Người An Nam thì trái lại, họ dễ dàng thao tác với loại gỗ này, họ ít khi làm hỏng các loại gỗ bản xứ. Đồ mỹ nghệ khảm trai, các loại khay với kiểu dáng khác nhau, văn phòng tứ bảo, giường, hòm, bàn viết, điếu, ống hút thuốc đôi khi là những kiệt tác nho nhỏ mà chắc chắn sẽ không khiến bất kỳ phòng khách nào ở Paris xấu đi” (trang 242, 243, 244).
Tiếng súng xâm lược của Pháp bắt đầu từ Đà Nẵng năm 1858 và Paul Doumer đến Đông Dương làm Toàn quyền năm 1897. Năm năm là quan cai trị cao nhất, Paul Doumer đã khẳng định “Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung quanh”.
Là người từng đến nhiều nước tại châu Á, ông đã nhận xét trong cuốn hồi ký:
“Không một dân tộc nào trong Đế quốc Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam. Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa”.
Nền kinh tế lệ thuộc hoàn toàn vào nhà nước thực dân, nhân dân ta chỉ còn là những nô lệ là thách thức không thể lớn hơn nhưng nhân dân ta vẫn sản xuất, kinh doanh, hàng hóa làm ra cạnh tranh được với mọi nước ở châu Á, không chịu kém bất cứ nước nào, dù là Nhật hoặc Trung Hoa.
Từ mấy thế kỷ trước, qua sách báo nước ngoài, trong bất cứ hoàn cảnh nào nhân dân ta đều làm kinh tế rất giỏi. Toàn quyền Đông Dương cũng phải đánh giá cao các “bàn tay vàng” của nhân dân ta. Chúng ta vô cùng tự hào với ông cha ta và đến bao giờ làm kinh tế mới có thể thực hiện “Con hơn cha là nhà có phúc”.
Ngày nay tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sau Đại hội Đảng XII càng tập trung đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế để rút ngắn khoảng cách với các nước cùng khu vực. Làm kinh tế phải dựa hẳn vào dân mới có thể hạn chế thua lỗ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí vì chỉ trong các tầng lớp nhân dân mới có nhiều người giỏi sản xuất, kinh doanh, nhiều người dầy dạn kinh nghiệm cạnh tranh tại các thương trường.