Báo Đại Đoàn Kết Quốc hội

Phát triển kinh tế biển với mục tiêu Net Zero

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Phát triển kinh tế biển với mục tiêu Net Zero

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Đại biểu Tạ Đình Thi (Đoàn Hà Nội) kỳ vọng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta sẽ quyết liệt hành động để biến Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển trên nền tảng phát triển xanh và bền vững.

Ngày 4/11, Quốc hội thảo luận ở tổ về dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Đại biểu Tạ Đình Thi (Đoàn Hà Nội) đóng góp một số ý kiến về định hướng phát triển bền vững kinh tế biển, trên cơ sở quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII và các nghị quyết khác có liên quan của Đảng. 

Theo ông Thi, Việt Nam là quốc gia biển, có lịch sử, truyền thống, văn hóa và quá trình dựng nước, giữ nước gắn liền với biển. Biển Đông có vị trí đặc biệt quan trọng về địa chiến lược, chính trị, kinh tế, tự nhiên đối với nước ta. Thời gian qua, Trung ương đã ban hành 2 Nghị quyết chuyên đề, Bộ Chính trị ban hành nhiều nghị quyết, kết luận về những vấn đề liên quan với mục tiêu tổng quát phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là chủ trương lớn, phù hợp với xu thế chung của thế giới và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chủ trương của Đảng, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, có thể nhận thấy, đến nay chúng ta vẫn chưa tận dụng, khai thác hết tiềm năng, lợi thế chiến lược của biển để phát triển bền vững đất nước.

Ông Thi cho hay, thực tiễn thế giới cho thấy, các quốc gia có biển thành công đều coi trọng việc bảo vệ, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, môi trường và không gian biển. Tất cả các cường quốc, nền kinh tế lớn nhất trên thế giới đều là quốc gia có biển, trừ Thụy Sĩ. Nhiều nước coi việc tiến ra biển, làm chủ biển, bảo vệ và khai thác, sử dụng bền vững không gian biển là một đại chiến lược phát triển quốc gia; “kinh tế biển xanh” là trụ cột then chốt. 

Từ thực tiễn của đất nước, kinh nghiệm quốc tế, theo ông Thi, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ, đổi mới tư duy, hoàn thiện các chủ trương để biến tiềm năng to lớn của biển thành động lực phát triển bền vững, thích ứng với xu thế toàn cầu, bên cạnh việc kiến tạo những không gian phát triển mới - vũ trụ và lòng đất. Từ đó ông Thi đề nghị đánh giá, làm sâu sắc hơn các nội dung liên quan trong dự thảo Báo cáo chính trị, bao gồm dự thảo Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết, trong đó tập trung nghiên cứu, bổ sung, làm rõ các nội dung. 

Cụ thể, đẩy mạnh chuyển đổi mô hình phát triển theo hướng "Kinh tế biển xanh". Đây là xu hướng tất yếu, trong đó phát triển kinh tế biển phải dựa trên nền tảng bảo tồn hệ sinh thái, đa dạng sinh học và giảm thiểu tác động môi trường. Phát triển năng lượng tái tạo biển thành ngành kinh tế biển mũi nhọn. Cần có chiến lược quốc gia về điện gió ngoài khơi, với lộ trình và cơ chế đặc thù để thu hút đầu tư, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, phát triển công nghiệp phụ trợ. 

Điện gió ngoài khơi không chỉ góp phần quan trọng vào an ninh năng lượng và mục tiêu Net Zero mà còn tạo ra cực tăng trưởng mới; thúc đẩy nuôi trồng thủy sản công nghệ cao, sinh thái. Chuyển từ khai thác tự nhiên sang phát triển nuôi trồng bền vững, ứng dụng công nghệ tuần hoàn, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, xây dựng thương hiệu thủy sản "xanh" đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế; phát triển du lịch biển bền vững và thông minh. Ưu tiên các mô hình du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với bảo vệ môi trường, bảo tồn văn hóa biển. Ứng dụng công nghệ số trong quản lý du lịch để giảm áp lực lên môi trường và nâng cao trải nghiệm.

Bên cạnh đó, gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế biển với mục tiêu Net Zero. Mọi hoạt động kinh tế trên biển đều phải hướng tới giảm phát thải carbon. Xanh hóa ngành vận tải biển và dịch vụ cảng: Khuyến khích, hỗ trợ tàu biển sử dụng nhiên liệu sạch; đầu tư hệ thống cung cấp điện bờ cho tàu cập cảng; phát triển cảng xanh, áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải. Bảo vệ và phục hồi "bể chứa carbon xanh". Các hệ sinh thái biển như rừng ngập mặn, cỏ biển, rạn san hô là những bể chứa carbon tự nhiên cực kỳ hiệu quả. Cần có chính sách đặc thù để bảo vệ, phục hồi và mở rộng diện tích các hệ sinh thái này, đồng thời nghiên cứu để có thể tính toán và đưa vào hệ thống hạch toán carbon quốc gia.

Ông Thi cũng đề nghị, tăng cường đối ngoại, hợp tác quốc tế và huy động nguồn lực cho kinh tế biển xanh. Chủ động tham gia các sáng kiến và thể chế quốc tế về kinh tế biển xanh và bảo vệ đại dương: Tranh thủ hỗ trợ về tài chính, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các quốc gia và tổ chức quốc tế; Thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án kinh tế biển xanh: Xây dựng cơ chế tài chính xanh (trái phiếu xanh, quỹ đầu tư xanh) ưu tiên cho các dự án năng lượng tái tạo biển, nuôi trồng thủy sản bền vững, xử lý ô nhiễm môi trường biển.

“Đề nghị nghiên cứu, lồng ghép tư tưởng Kinh tế biển xanh và mục tiêu Net Zero vào nội dung chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển quốc gia trong Văn kiện, thể hiện tầm nhìn, phù hợp xu thế không chỉ khai thác hiệu quả tài nguyên, không gian biển mà còn bảo đảm sự trường tồn của biển, đại dương cho các thế hệ tương lai của đất nước”, ông Thi nói và kỳ vọng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta sẽ quyết liệt hành động để biến Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển trên nền tảng phát triển xanh và bền vững.

Việt Thắng - Trung Hiếu