Ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Intimex Group: Để ngành gạo Việt Nam phát triển ổn định, chúng ta phải chọn những sản phẩm nào có giá trị cao, được nhiều thị trường chấp nhận để phát triển…
Lựa chọn các sản phẩm lúa, gạo có giá trị cao để sản xuất.
Ngày 19/9 tại Cần Thơ diễn ra hội thảo Phát triển chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam với chủ đề “Đột phá công nghệ, nâng cao chất lượng, tăng hiệu quả trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo”.
Theo Bộ Công thương, Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu gạo, chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo xuất xuất khẩu toàn thế giới, gạo Việt Nam có mặt ở khoảng 150 quốc gia và vùng lãnh thổ, hiện tại có 177 thương nhân Việt Nam tham gia xuất khẩu gạo. Xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng liên tục cả về lượng và giá trị giai đoạn 2016-2018, nhưng 8 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu gạo tăng 0,1% về lượng và giảm gần 15% về giá trị (đạt 1,96 tỷ USD). Trong đó, xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 65% về lượng và giảm 67% về giá trị. Quốc gia tỷ dân này đã không còn là thị trường dễ tính khi họ tăng quản lý về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, siết chặt quản lý biên giới.
Cũng theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công thương: Nghị định 107 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo do Bộ Công thương chủ trì đã thể hiện tư duy quản lý mới thông thoáng hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo được nới lỏng. Sau 9 tháng thực thi theo Nghị định 107, đã có thêm 41 thương nhân và 5 địa phương được cấp các giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo so với trước đây. Nhiều thương nhân đã có sự đầu tư thông qua tự sở hữu và đầu tư xây dựng các cơ sở về kho chứa xay sát, qua đó cho thấy các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cam kết lâu dài và mong muốn gắn bó với lĩnh vực xuất khẩu gạo, đồng hành với bà con nông dân.
Với diện tích khoảng 1,7 triệu ha đất lúa, hàng năm vùng ĐBSCL gieo trồng khoảng 4,2 triệu ha lúa. Theo TS Trần Ngọc Thạch – Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, kết quả điều tra năm 2017 cho thấy có trên 50 giống đang được bà con nông dân sử dụng, trong đó phổ biến nhất là khoảng 10 giống với diện tích gieo trồng bình quân cả năm trên 100 ngàn ha/giống. Những năm gần đây, diện tích gieo trồng các nhóm giống lúa thơm, đặc sản và giống lúa chất lượng cao liên tục được gia tăng và giảm dần các nhóm lúa chất lượng trung bình và thấp.
Tuy nhiên, diện tích lúa sản xuất theo quy trình canh tác hữu cơ còn quá ít và chưa có quy hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm giống theo tiểu vùng sinh thái. Mặt khác, giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước lân cận như Campuchia hay Thái Lan. Hiện các giống lúa thơm, đặc sản chủ lực của Việt Nam cho xuất khẩu vẫn tập trung ở nhóm giống Jasmine 85, nhưng chất lượng gạo không ổn định cho chất lượng nguồn giống và đặc điểm mùa vụ nên khó cạnh tranh với các giống lúa mùa thơm, đặc sản của Thái Lan hay Campuchia. Ngoài ra, việc kiểm soát quy trình canh tác và truy xuất nguồn gốc cũng là một bất lợi cho việc gia tăng giá trị gạo xuất khẩu của Việt Nam…
Theo TS Nguyễn Hồng Sơn, Viện trưởng Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, ứng dụng công nghệ tiên tiến trong bảo quản, chế biến hiện đang là khâu xung yếu nhất trong chuỗi giá trị lúa gạo Việt Nam. Vấn đề này cũng đã được xác định là cơ hội và tiềm năng phát triển mạnh cho những sáng kiến mang tính đột phá của ngành lúa gạo, của các doanh nghiệp, là chủ thể của chuỗi sản xuất lúa gạo Việt Nam, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách cũng như mục tiêu lâu dài về nâng cao chất lượng, giá trị và năng lực cạnh tranh của gạo Việt...
Theo ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc Intimex Group, để ngành gạo Việt Nam phát triển ổn định thì chúng ta phải chọn những sản phẩm nào có giá trị cao, được nhiều thị trường chấp nhận để phát triển, chẳng hạn như gạo Jasmine được rất nhiều nước trên thế giới chấp nhận và sử dụng nhiều. Mặt khác, các doanh nghiệp cần phải đổi mới, cải tiến thiết bị kỹ thuật là hết sức cần thiết, nếu không chúng ta sẽ mất dần thị trường. Các doanh nghiệp dù muốn hay không cũng phải xây dựng cơ chế quản lý về các chất hữu cơ, an toàn vệ sinh thực phẩm, vấn đề hóa chất, vấn đề bảo quản sau thu hoạch... để vượt qua được các rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe của các nước phát triển...
Ông Nguyễn Hồng Sơn - Viện trưởng Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam (Bộ NN&PTNT) cho biết 5 năm qua, diện tích lúa của Việt Nam có xu hướng giảm nhẹ (7,9 triệu ha năm 2013 xuống 7,5 triệu ha năm 2018), nhưng năng suất tăng (53,4 tạ/ha năm 2010 lên 58,1 tạ/ha năm 2018), sản lượng lúa tăng từ 40 triệu tấn năm 2010 lên 43,9 triệu tấn năm 2018. Về công nghệ sản xuất và sử dụng phân bón, theo ông Sơn, phân bón là vật tư đầu vào quan trọng nhất và chiếm tới 37% tổng chi phí sản xuất. Nhu cầu sử dụng phân bón ở Việt Nam hiện nay vào khoảng 11 triệu tấn các loại, trong đó tự sản xuất trong nước 8-9 triệu tấn, nhập khẩu 2-2,5 triệu tấn. Hàng năm, nông dân Việt Nam chi khoảng 110 nghìn tỷ đồng (tương đương 5 tỷ USD) cho phân bón, trong đó khoảng 65% tổng lượng phân hóa học đa lượng (N,P,K) được sử dụng trong sản xuất lúa. Tuy nhiên, hiệu suất sử dụng phân bón cho cây trồng đang rất thấp, nhất là với cây lúa. Lượng phân bón sử dụng trung bình mỗi năm là 1.000kg/ha nhưng với hiệu quả sử dụng chỉ đạt 45-50% (trung bình, cây trồng chỉ hấp thu khoảng 50% lượng đạm, 40% lân và 60% kali so với lượng phân được bón). Sự mất cân đối trong sử dụng phân hữu cơ và vô cơ dẫn tới những hệ lụy xấu về môi trường, giảm độ phì của đất (đất bị thoái hóa) và giảm chất lượng nông sản…
Hội thảo đã diễn ra 2 phiên thảo luận với các chủ đề: “Cơ hội và thách thức của ngành lúa gạo Việt Nam trong bối cảnh mới” và “ Những công nghệ tiên tiến trong chế biến và bảo quản lúa gạo đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của thị trường gạo cao cấp”.
Hội thảo nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận thông tin về những công nghệ thiết yếu và tiên tiến nhất trong chế biến, bảo quản và gia tăng giá trị từ lúa gạo…