Rau mùi dùng làm gia vị và thuốc. Cây thu hoạch vào mùa xuân và hè, dùng tươi hay phơi khô. Quả chín thu hái vào mùa hạ, sấy khô.
Theo BS.CKII Huỳnh Tấn Vũ, rau mùi được trồng phổ biến ở khắp nước ta nhưng chỉ thấy để lấy lá làm gia vị hay một số ít dùng trong ngày Tết nấu nước tắm.
Còn gọi là hồ tuy, hương tuy, nguyên tuy, ngò, ngổ, ngổ thơm, coriander, coriander (Anh), coriander (Đức). Tên khoa học: Coriandrum sativum L. Họ: Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
Công dụng: Làm thuốc trung tiện, làm dễ tiêu, kích thích và trợ tiêu hóa.
Mùi còn gọi là hồ, là tên nước Hồ (tên Trung Quốc cổ đặt cho các nước ở Ấn Độ, Trung Á). Xưa kia, người Trung Quốc đi sứ nước Hồ mang giống cây này về có lá thưa, tản mát.
Rau mùi mọc hoang ở Ðịa Trung Hải và Tây Á, được trồng từ lâu đời nhất trên thế giới. Ở nước ta, rau dùng làm gia vị và thuốc. Cây thu hoạch vào mùa xuân và hè, dùng tươi hay phơi khô. Quả chín thu hái vào mùa hạ, sấy khô.
Mô tả cây: Cây sống hằng năm, cao 0,35-0,50m, thân nhẵn, phía trên phân nhánh. Lá ở gốc có cuống dài, 1 đến 3 lá chét, lá chét hình hơi tròn và bản thân lại thường xẻ thành 3 thùy, mép thùy có khía răng tròn và to. Lá phía trên có lá chét chia thành những thùy hình sợi nhỏ, nhọn. Toàn thân và lá có mùi thơm dễ chịu.
Hoa trắng hay hơi hồng, họp thành tán gồm 3-5 cọng, không có tổng bao, tiểu bao gồm 2-3 lá chét đính ở một phía. Quả hơi hình cầu, dài 2,5-4mm, gồm 2 nửa, mỗi nửa có 4 sống thẳng và 2 sống chung.
Phân bố,thu hái và chế biến: Rau mùi được trồng phổ biến ở khắp nước ta nhưng chỉ thấy để lấy lá làm gia vị hay một số ít dùng trong ngày Tết nấu nước tắm. Tại nhiều nước vùng ven Địa Trung Hải, Trung Á, Ấn Độ, Trung Quốc… người ta trồng quy mô lớn để lấy quả làm thuốc và cất tinh dầu dùng trong công nghiệp nước hoa. Hái toàn tán, phơi nắng cho khô rồi đập lấy quả, tiếp tục phơi nắng cho khô và bảo quản tránh ẩm.
Khi khô, quả mùi mất mùi hôi, có mùi thơm dễ chịu.
Ngoài quả ra, người ta còn dùng cả rễ và lá làm thuốc.
Thành phần hóa học: Trong quả mùi có 0,3 đến 0,8, có khi tới 1% tinh dầu. Ngoài ra còn 13-20% chất béo, 16-18% chất protein, 3 8% xenluloza và 13% chất không nitơ. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là 70-90% linalola quay phải (còn gọi là coriandrola, 5% d.pinen, limonen, tecpinen, mycxen, phelandren, một ít geraniola và bocneola). Trong lá và thân cũng chứa trên dưới 1% tinh dầu.
Công dụng và liều dùng: Quả mùi là một vị thuốc được dùng trong Đông y và Tây y.
Tây y dùng quả mùi làm thuốc trung tiện, làm dễ tiêu, kích thích và hỗ trợ tiêu hóa.
Công nghiệp nước hoa, hương liệu cho chè và rượu mùi dùng nhiều hơn nữa.
Tính chất quả mùi theo tài liệu cổ: Vị cay, tính ôn, có tác dụng phát tán, thúc đậu sởi mọc, trừ tà khí, khu phong, long đờm, dùng làm thuốc khỏe dạ dày, tiêu cơm, thông khí ở bụng dưới, lợi đại tiểu trường, sởi, đậu không mọc. Phàm chứng cước khí, kìm sang, sâu răng hôi mồm chớ ăn.
Hiện nay quả mùi được dùng thúc đậu sởi mọc: Tán quả mùi, hòa vào rượu mà phun thì đậu sởi mọc ngay. Dùng làm thuốc giúp trợ tiêu hóa, chữa ho, ít sữa. Mỗi ngày dùng 4-10g quả mùi, hoặc 10-20g lá hoặc cây tươi dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu.
Đơn thuốc có quả mùi trong dân gian:
- Đậu sởi không mọc: Quả mùi 80g tán nhỏ, rượu 100 ml, nước 100 ml. Đun sôi, đậy kín tránh bay hơi. Lọc bỏ bã. Phun từ đầu đến chân, trừ mật. Đậu sẽ mọc ngay (kinh nghiệm dân gian).
- Đẻ xong cợn sữa: Quả mùi 6g, nước 100ml. Đun sôi trong 15 phút, chia hai lần uống trong ngày.
- Mặt có những nốt đen: Quả mùi sắc nước rửa luôn, nốt đen sẽ mất dần.
- Lòi dom: Quả mùi đốt hun lấy khói hứng vào nơi dom lòi ra.