Phân luồng sau bậc THCS hướng tới mục tiêu định hướng nghề nghiệp tương lai cho người học. Tuy nhiên các làm hình thức thời gian qua đã dẫn tới hiệu ứng ngược, đó là gia tăng áp lực tuyển sinh vào lớp 10 - nhất là ở các thành phố lớn. Nhiều ý kiến cho rằng để thực hiện hiệu quả chủ trương phân luồng học sinh sau THCS và THPT, đòi hỏi triển đồng bộ các giải pháp chứ không thể “khoán” cho giáo dục.
Tại phiên thảo luận ở Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vừa qua, nhiều đại biểu nhìn nhận công tác phân luồng học sinh đi học nghề sau THCS và THPT còn nhiều bất cập. Ông Nguyễn Văn Mạnh - Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc cho biết, Quyết định 522 năm 2018 của Thủ tướng về việc này đặt mục tiêu ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp THCS học nghề vào năm 2025. Điều này tạo ra áp lực rất lớn cho các kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10. Theo ông Mạnh, hiện mỗi năm có khoảng 15% học sinh tốt nghiệp THCS bỏ học, không có việc làm ổn định. Chất lượng đào tạo nghề với nhóm này còn thấp, tỷ lệ có việc làm không cao. Cùng đó, chỉ tiêu 45% học sinh tốt nghiệp THPT đi học nghề cũng không đạt vì đa phần các em mong muốn vào đại học. Từ đó, ông Mạnh đề xuất giảm tỷ lệ phân luồng học nghề sau THCS để học sinh được bình đẳng về quyền học tập trong nhà trường. Việc này giúp các em phát triển toàn diện tư duy, thể chất, tránh gây áp lực cho xã hội và giảm tệ nạn do các em không được giáo dục đầy đủ trong môi trường sư phạm.
Bà Lò Thị Luyến - Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Điện Biên nhận định, việc phân luồng học sinh sau THCS vào trường nghề chưa đạt được mục tiêu đề ra. Việc khảo sát, đánh giá nhu cầu thị trường việc làm chưa được quan tâm đúng mức. Mã ngành nghề, cơ cấu đào tạo nhân lực chưa bám sát nhu cầu việc làm, thị trường. Đa số học sinh và phụ huynh lúng túng và thiếu thông tin khi lựa chọn nghề nghiệp. Một số cơ sở giáo dục thực hiện phân luồng cực đoan, cứng nhắc dẫn đến sự đồng thuận không cao của phụ huynh. Trong khi đó, ở các vùng khó khăn, trường nghề không đủ hấp dẫn, cơ sở vật chất yếu kém. Học sinh cũng lựa chọn nghỉ học ở nhà nhiều, tảo hôn, sinh con sớm hay bị dụ dỗ vi phạm pháp luật.
Từ thực trạng nêu trên, bà Luyến kiến nghị Chính phủ, bộ, ngành đánh giá lại Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh giai đoạn 2018-2025 (Quyết định 522), cũng như việc sắp xếp, sáp nhập các trung tâm dạy nghề, để đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Nguyễn Kim Sơn cho hay, chỉ tiêu phân luồng học sinh sau THCS và THPT đã được các địa phương làm cơ sở để xây dựng hệ thống trường công lập. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhu cầu học THPT của học sinh cao hơn so với khả năng đáp ứng của hệ thống trường, lớp hiện tại, gây ra nhiều căng thẳng trong quá trình lựa chọn. Học sinh phải đối mặt với sức ép lớn thi vào lớp 10 các trường THPT công lập. Sau thời gian triển khai Quyết định số 522 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025”, đã đến lúc cần đánh giá đầy đủ về vấn đề này.
Ông Sơn cũng dẫn chứng số liệu thống kê trong 10 năm của UNESCO, tỉ lệ thanh niên trong độ tuổi 15 - 24 theo học các trình độ giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam có xu hướng tăng trong khu vực và cao hơn hẳn mức trung bình của Đông Á, Đông Nam Á; tăng từ 5,2 - 9,2%; xấp xỉ bằng mức trung bình của châu Âu, Bắc Mỹ, giữ ổn định trong 17,0 - 17,9%.
Trong khi đó, số liệu thống kê từ năm 2021 -2023 của Bộ GDĐT cho thấy, tỉ lệ người học đại học trong độ tuổi từ 18 - 22 của Việt Nam đạt từ 22,9% đến xấp xỉ 30%. Tỉ lệ này chỉ ở mức bình quân của các nước trung bình và thấp hơn rất nhiều với các nước trong khu vực. Ví dụ: Thái Lan 34,8%, Singapo 54,9%, Đức 44,2%, Anh 44,36% và Mỹ xấp xỉ 46%, thấp hơn hẳn những nước có thu nhập trung bình cao gần 37%. Như vậy, mô hình hình tháp nhọn truyền thống là lấy cơ sở là đào tạo sơ cấp, trung cấp không còn phù hợp. Mức độ đáy của trình độ đào tạo nghề nghiệp đang dần tiệm cận lấy trình độ đại học làm chuẩn. Vì vậy, theo ông Sơn cần tính toán lại ở tầm vĩ mô cơ cấu và quan điểm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục ĐH. Quan điểm thầy - thợ trong đào tạo nhân lực chất lượng cao cũng đang tiệm cận với nhau, rất khó phân biệt đâu là thầy, đâu là thợ, đặc biệt là các ngành nghề chất lượng cao và mũi nhọn.
Về nội dung tháo gỡ khó khăn cho các Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên sau sáp nhập, Bộ trưởng Bộ GDĐT thừa nhận, đây là vấn đề khó khăn, vướng mắc đang có thực. Hiện nay cả nước có 92 trung tâm thuộc quản lý của Sở GDĐT, 526 trung tâm do Sở LĐTBXH hoặc UBND quận, huyện, thị xã quản lý. Điều này cho thấy, vấn đề chủ thể quản lý, điều hành đang rất đa dạng.