Dù biết nghề lặn biển luôn đối mặt với “thần chết”, nhưng người dân vẫn theo vì đây là nguồn sống duy nhất của làng. “Anh cứ đi thẳng, nhìn xung quanh thấy làng nào mà từ thanh niên cho đến cụ già ai cũng có nước da ngăm đen đích thị là làng thợ lặn…”- lời chỉ dẫn của cụ già ven đường mới nghe ai cũng bật cười. Nhưng nhờ cách nhận diện này chúng tôi dễ dàng tìm đến làng Phú Hải 1, xã Lộc Vĩnh (Phú Lộc, Thừa Thiên-Huế), một ngôi làng nghèo ven biển, được bao bọc bởi đồi cát, người dân quanh năm m
Bắt tôm hùm gần cửa biển Chân Mây.
Tập sống dưới đáy đại dương
Ông Trần Đình Huế, 55 tuổi, có hơn 30 năm sống bằng nghề lặn ốc, với bề dày kinh nghiệm ông đã trở thành “thầy lặn” trong làng. Nhiều thanh niên vẫn thường đến nhờ ông dạy cách sống dưới đáy đại dương. Ông nói: “Học nghề này không khó, nhưng phải chuyên cần và tuân thủ các quy tắc khi xuống biển. Bởi nghề lặn rất nguy hiểm, không phải cứ ngậm ống ôxi là lao xuống đáy biển được. Tôi dạy cho thanh niên chủ yếu là cách phát hiện luồng nước độc, giữ nhiệt trong cơ thể, hoặc lặn lâu mà không bị nhức xương…” - Ông Huế chỉ tay vào bình gas: “Ngày xưa bọn tôi đi lặn biển không có bình ôxi như bây giờ, nên xuống vài phút phải nổi lên và chỉ lặn độ sâu 4-5m , hiểm nguy cao hơn. Giờ thanh niên làng chế được bình gas thành bình ôxi, nên chỉ cần nắm vững các bài học cơ bản là có thể tự tin sống dưới đáy đại dương cả ngày, với độ sâu lên đến 20-25m…”.
Một trong những học trò giỏi của thầy Huế là anh Phan Vọng, 30 tuổi, trông anh rất khỏe mạnh rắn chắc như chàng trai mới vào nghề. Anh Vọng khoe: “Mình học lặn từ thầy Huế năm 14 tuổi. Nên giờ mình có thể sống dưới biển với độ sâu 20-25m cả ngày liền, khi nào đói lên ăn cơm, nhưng sức khỏe vẫn đảm bảo…”.
Theo anh Vọng, để có được thành tích đó anh phải dày công tập luyện: “Lúc đầu nghe nói lặn độ sâu 6-7m mình thấy sợ. Nhưng ở làng muốn có cái ăn thì nhất quyết phải học lặn. Thầy luôn bảo, tập luyện kỹ sẽ giúp mình không giáp mặt “thần chết” với nguyên tắc là trên sông đổ mồ hôi thì dưới biển bớt đổ máu…”. Vừa nói, anh Vọng xoay người về khúc sông: “Lúc đầu mình học lặn chay (không bình ôxi) ở sông. Khi cảm giác biết ngụp lặn và làm chủ được nước, mình bắt đầu cho dùng bình ôxi, tập lặn ở độ sâu chừng 2-3m. Thời gian đầu lặn chỉ được 8-10 phút, vì tức ngực và khó chịu. Khoảng 1 tháng sau, mình quen dần và bắt đầu đi lại được dưới đáy sông.
Sau đó, mình bắt đầu ra biển. Lúc đầu lặn ở độ sâu 10m, với áp lực nước biển mình nín được 10 phút lại phải nổi lên, vì nhức xương và sọc máu mũi. Thầy liền dạy cho mình cách xì hơi tai. Tức là khi nhảy xuống biển mình chỉ cần nín thở và đẩy hơi trong cơ thể ra khỏi tai. Khi làm theo phương pháp này mình đi lại dưới biển cả ngày. Từ đó thời gian mình sống dưới đáy đại dương nhiều hơn trên mặt nước…”- anh Vọng tự hào nói.
Cũng giống anh Vọng, em Nguyễn Văn Hùng, 20 tuổi cũng được thầy Huế và bố hướng dẫn cho cách sống dưới đáy biển: “Lúc đầu em tập lặn dưới đáy sông, nhiều lần thấy oải vì không chịu nổi cơn đau ngực. Nhưng cứ nghĩ đến tương lai em quyết tâm học. Cuối cùng em đã học được nghề lặn. Vài ngày nữa em và một số bạn cùng lứa sẽ ra biển lặn bắt ốc về cho bố mẹ bán”- Hùng hồ hởi nói.
Dù lớn tuổi nhưng nhiều người vẫn theo nghề lặn biển.
Hiểm nguy đời lặn biển
Hỏi nghề lặn biển, anh Trần Đình Thuận, 28 tuổi, có 15 năm làm nghề lặn biển thở dài: “Cái nghề này hỏi làm chi chú ơi, cực nhọc và sống-chết luôn treo lơ lửng trên đầu…”- Anh Thuận xắn tay áo, chỉ vào vết kim tiêm chi chít trên cánh tay kể: “Cách đây hai tuần tôi và ba bạn thuyền ra biển, vừa xuống độ sâu 20m thì thấy nhức xương và máu mũi trào ra. Tôi liền ngoi lên khỏi mặt nước, lên thuyền chân, tay tê cứng. Mấy anh em bàn đưa tôi vào bờ, nhưng tiếc công và tiền xăng bỏ ra khơi nên liều ở lại. Ngồi trên thuyền thấy anh em ngụp lặn cực tôi không ngồi yên được và tiếp tục buộc chì nhảy xuống biển làm việc trở lại. 2 tiếng đồng hồ sau đó tôi bị đau lại. Lần này, tôi cũng kịp nổi lên mặt nước, nhưng miệng và người không cử động được, mọi người hốt hoảng chở tôi vào bờ. Sau hai tháng điều trị ở bệnh viện tôi mới lành…”.
Tưởng lần đó anh Thuận sẽ bỏ nghề lặn biển, nhưng vì phải kiếm gạo nuôi vợ và một đứa con nhỏ nên anh lại đi tiếp: “Muốn bỏ chắc phải chờ chết!”- anh Thuận tâm sự.
Theo anh Thuận, đầu năm 2012 cả làng đi biển gặp nước độc: “Hơn 20 chiếc thuyền, có trên 100 người ra biển trúng độc chân, tay tê cứng và nhức xương phải đi cấp cứu tại trạm xá. Nên người dân ở đây sợ nhất là lặn biển gặp nước độc. Luồng nước này thường xuất hiện vào tháng 5, nếu thợ nào lặn trúng luồng chính của nước độc thì nguy cơ bị bại liệt hoặc chết rất cao…”.
Từng gặp nạn trên biển, anh Nguyễn Văn Sơn, vẫn cảm giác lạnh dọc sống lưng khi nhớ lại chuyện thoát chết.
Anh kể: “Đó là vào tháng 1/2013, tôi và bốn bạn thuyền ra biển lặn bắt tôm hùm. Lúc tôi nhảy xuống biển với độ sâu 20m bắt tôm thì bỗng dưng nghe nhức xương, dù vậy tôi vẫn cố gắng không nổi lên mặt nước, một tiếng đồng hồ sau, máu trong mũi trào ra tay chân cứng đờ, khiến tôi không đủ sức để tháo chì để người nổi lên mặt nước. Tôi liền nhả vòi oxi lấy miệng tháo sợi dây buộc chì, đạp cho người nổi lên và kêu cứu. Anh bạn ngồi trên thuyền nhảy xuống đưa lên. Tôi thấy người cứng đờ và lịm đi…”.
Ông Nguyễn Tài (bố Sơn) ngồi bên cạnh tiếp: “Lúc người ta chở về nó vẫn bất tỉnh, da xanh, miệng sùi bọt mép, tôi liền thuê xe đưa nó vào thẳng Bệnh viện Trung ương Huế… Lúc nhập viên, bác sĩ bảo nguy cơ sống sót chỉ 10%. Nghe vậy tôi chết lặng… mẹ nó thì khóc thét giữa bệnh viện. May mắn sau hai tháng nằm bất tỉnh nó dần hồi phục, giờ sức khỏe đã đỡ hơn nhưng chân vẫn còn bị tê và đi lại khó khăn…”.
Giờ nhắc đến chuyện đi biển, anh Sơn buồn nói: “Tôi cũng muốn rời quê kiếm nghề khác làm cho đỡ khổ và giữ được cái mạng, nhưng vướng vợ con nên chắc ở lại đây tiếp tục lặn để kiếm gạo thôi…”.
Chuẩn bị đồ nhái lặn tìm tôm hùm.
Cả nhà cùng ra biển
Từ lặn sắt chuyển sang Ông Nguyễn Văn Hòa, cho biết nghề lặn của làng vốn đã tồn tại hàng trăm năm. Trước đây, người dân chủ yếu lặn sắt từ những con tàu đắm để bán, từ năm 2000, thương lái ở Nha Trang săn tôm hùm giống nên hầu hết chuyển sang nghề lặn tôm hùm. Hơn nữa tôm hùm giống có giá từ 200-300.000 đồng/con. Nếu thuyền nào gặp may mỗi ngày kiếm được 10-15 triệu. Tuy nhiên, mùa lặn tôm hùm chỉ kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch nên việc lặn tôm hùm không thường xuyên khiến cuộc sống người dân còn nhiều bấp bênh. |
Ông Nguyễn Ngọc Chinh, trưởng thôn Phú Hải 1 cho biết, toàn thôn có 225 hộ với 880 khẩu: “Đất nông nghiệp ít, nên hầu hết người dân sống bằng nghề lặn biển kiếm sống. Hiện toàn thôn có trên 20 thuyền nhỏ và gần 200 người thường xuyên lặn biển. Sở dĩ người dân nơi đây chọn nghề lặn nhiều là do không có kinh phí đóng thuyền lớn để ra khơi đánh bắt cá. Nên họ sắm những chiếc ghe nhỏ để kiếm sống từ đó sinh ra nghề lặn biển...”.
Ông Trần Đình Lý, 55 tuổi ứa nước mắt khi nhắc đến chuyện ba người con đều theo nghiệp bố. Ông Lý thở dài: “Buốn lắm chú ạ, làm cha mà chẳng tìm được nghề nào tốt cho con. Ai cũng biết nghề lặn tôm hùm, ốc bạc lắm! lại luôn phải đối mặt với bệnh tật, nhưng sống giữa vùng cát này biết làm cái gì ra tiền, nếu không ra biển…”- ông Lý kể: “Cha con mỗi lần ra khơi may mắn chỉ kiếm được từ 3-5 triệu đồng, có khi vài trăm ngàn, nhưng không phải ngày nào cũng đi. Trung bình cha con tôi mỗi tuần đi một đến hai lần, vì nghề lặn mất sức lắm…”.
Ông Lý chỉ tay lên mái đầu bạc: “Nghề này nó rút ngắn tuổi thọ con người đến vài chục năm. Tôi năm nay mới 50 tổi mà già khụm, râu tóc bạc phếch. Nhớ cách đây chừng mười năm, gần tạ gạo trên vai mang chạy hàng chục km, nhưng giờ thì chịu, sức lực kiệt rồi. Cũng vì nghề bán sức nên làng này có mấy người lặn biển sống thọ đâu…”.
Cùng cảnh ngộ, ông Nguyễn Thạch, 52 tuổi hàng ngày vẫn cùng năm đứa con ra biển. Đối với ông mỗi lần ra biển là một cuộc chiến sinh-tử: “Nhưng biết làm sao được, trời kêu ai người đó dạ thôi chú ạ…”. Ông Thạch giọng buồn: “Cách đây hai năm, tôi quyết không cho đứa út theo nghề lặn biển, nên dạy cho nó cách bủa lưới gần bờ. Nhưng giờ cá tôm trong bờ khan hiếm làm không đủ ăn. Thấy vợ con xanh xao vì đói nó lại phải học nghề lặn, giờ tôi và năm đứa con đều theo nghề này….”.
Theo ông Thạch, mỗi năm nghề lặn biển chỉ hoạt động thường xuyên chừng 5 tháng (từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch), nên thu nhập bấp bênh, cuộc sống khó khăn…
Không chỉ đàn ông lặn biển mà bà Nguyễn Thị Vòm, 50 tuổi cũng phải học nghề lặn.
Bà Vòm cho biết, ngày xưa, đàn ông lặn biển, đàn bà đi bủa lưới ở cửa cảng Chân Mây, nhưng từ khi cảng Chân Mây cấm người dân đánh bắt cá khiến cuộc sống thêm khó khăn: “Huyện, tỉnh về nói chúng tôi dừng đánh bắt cá để tàu hàng ra vào cảng được an toàn, đổi lại người dân sẽ được tỉnh giải quyết việc làm ở cảng Chân Mây và một số nơi khác. Nghe vậy dân chúng tôi mừng và đồng ý ngay. Nhưng lời nói gió bay, hơn năm qua con tôi và nhiều người dân nộp hồ sơ, xin vào làm lao công ở trong cảng cũng chẳng ai nhận. Tôi giờ 50 tuổi cũng phải học lặn theo con ra khơi tìm tôm, ốc bán nuôi thân…”.