Báo Đại đoàn kết Kinh tế

Sức bật cho du lịch nội địa

Báo Đại đoàn kết Tăng kích thước chữ

Sức bật cho du lịch nội địa

Báo Đại đoàn kết trên Google News

Dù đã có chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030, tuy nhiên ngành du lịch nội địa vẫn chậm đổi mới và kém hấp dẫn trước sự cạnh tranh quyết liệt của các loại hình du lịch hiện đại dù tiềm năng du lịch Việt Nam là rất lớn. Nếu không sáng tạo, chậm đổi mới thì rất khó tận dụng được vốn có để phát triển.

Du ngoạn sông Tiền.

Rừng vàng, biển bạc

Theo thống kê, Việt Nam có hơn 3.000km bờ biển, trải dài nhìn ra biển Đông với tuyến du lịch quốc tế rất thuận lợi. Trong đó, có đến 125 bãi biển đẹp, có nhiều đảo, vịnh kỳ thú. Theo xếp hạng quốc tế, Việt Nam đứng thứ 27 trong số 156 quốc gia giáp biển có bãi tắm đẹp, với vịnh Hạ Long và vịnh Nha Trang đứng đầu trong 12 quốc gia có vịnh đẹp nhất thế giới. Ngành du lịch nội địa cũng quản lý hơn 40.000 di tích, thắng cảnh, trong đó có hơn 3.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 7.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.

Về các dạng tài nguyên du lịch khám phá, Việt Nam có 30 vườn quốc gia, 400 nguồn nước nóng. Hang động Việt Nam cũng được xếp vào loại tự nhiên hiếm có, đóng góp nhiều cảnh quan vào di sản thiên nhiên thế giới.

Các chuyên gia ngành du lịch cũng nhấn mạnh đến các tiềm năng về văn hóa, con người Việt Nam, như một lợi thế đặc biệt của Việt Nam so với các quốc gia ASEAN khác. Với 54 dân tộc sinh sống, truyền thống mấy ngàn năm lịch sử xây dựng và phát triển, sự đa dạng về văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo cũng là những tiềm năng du lịch mà Việt Nam có thể tận dụng khai thác, đem về nguồn thu GDP cho đất nước. Theo TS Dương Văn Sáu, giảng viên Khoa Văn hóa Du lịch (ĐH Văn hóa Hà Nội), bản chất hoạt động du lịch là sáng tạo, sáng tạo trong tư duy và hành động. Vì chỉ có như vậy mới tạo ra sự khác biệt, tạo ra lợi thế cạnh tranh để trở thành cơ sở, nền tảng căn bản của quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững của kinh tế du lịch. Do đó, nếu không sáng tạo, chậm đổi mới thì rất khó tận dụng được tiềm năng vốn có để phát triển.

Còn TS. Vũ Khắc Chương – Hiệu trưởng trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn chỉ ra nguyên nhân của việc chưa tận dụng được tiềm năng “rừng vàng, biển bạc” của ngành du lịch, đó là do đầu tư chưa đúng mức; cơ sở hạ tầng yếu kém, chất lượng dịch vụ chưa cao; việc quản lý du lịch chưa chặt chẽ, hợp lý, khiến cho các điểm đến du lịch có nhiều nguy cơ và gây phiền hà khách du lịch.

Đa dạng hóa các loại hình du lịch

Loại hình du lịch truyền thống phổ biến ở nước ta, bao gồm du lịch thăm quan, nghỉ dưỡng, thăm viếng đền, chùa, lễ hội,… Loại hình này tồn tại suốt gần 30 năm qua, trong nhiều năm đã đem lại nguồn thu lớn cho ngành du lịch nội địa.

Theo GS.TS Nguyễn Văn Đính (ĐH Hà Tĩnh) thì các sản phẩm du lịch truyền thống của các địa phương hiện ít có sự khác biệt, mà còn na ná nhau. Mà nếu cứ giữ mãi những hình thức này thì sẽ dẫn đến sự nhàm chán, thiếu hấp dẫn với du khách, đặc biệt là du khách quốc tế. GS. Đính bày tỏ tiếc nuối khi thực tế Việt Nam có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, có nhiều di tích, thắng cảnh nổi tiếng trong nước và thế giới. Với hơn 320.000 km2 đất liền, địa hình nước ta rất đa dạng, có cả đồng bằng, trung du, miền núi, bờ biển, trong đó địa hình bờ biển trải dài 3260km với nhiều vùng vịnh, bãi tắm đẹp và có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ.

Cũng như GS. Đính, TS. Vũ Khắc Chương nhìn nhận, các loại hình du lịch văn hóa, tâm linh từng địa phương, du lịch sinh thái ở miền Bắc, Tây Nam bộ, miền Trung, Đông Nam bộ,…na ná giống nhau, không tạo nên sức hút cho du khách nhất là du khách nước ngoài, với nhu cầu trải nghiệm đa dạng và phong phú. Ngay cả tại một số sự kiện, chương trình điểm đến nhưng vẫn còn nhiều hướng dẫn viên du lịch không thông thạo tiếng Anh hoặc các thứ tiếng khác, hay thiếu các thiết bị hoặc chưa biết cách phục vụ các đối tượng du khách khác nhau.

TS. Ngô Quang Láng, cán bộ Ban Quản lý Di tích Văn hóa Óc Eo, tỉnh An Giang khi nghiên cứu phát triển du lịch tỉnh An Giang theo hướng tiếp cận các loại hình hiện đại chia sẻ, thực tế rất khó khăn khi hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ tại địa phương này còn chắp vá, các tuyến di chuyển giữa các vùng không ổn định, thuận lợi; các sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, đơn điệu như du lịch sinh thái thì quanh quẩn các loại hình như bơi xuồng, trồng lúa, tham quan vườn cây ăn trái,…

Ông Kiều Anh Vũ - Học viện Cán bộ TP.HCM cũng dẫn số liệu thống kê cho thấy đóng góp của ngành du lịch Việt Nam vào GDP năm 2014 đạt 4,6%, tương đương khoảng 182 ngàn tỷ đồng. Số khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2015 đã đạt 7,9 triệu lượt khách. Tuy nhiên, đóng góp này của ngành du lịch chưa thực sự cao so với tiềm năng rất lớn của ngành này. Dù vậy, theo ông Vũ thì muốn Việt Nam trở thành một trong những trung tâm du lịch lớn của khu vực, với nhiều sản phẩm du lịch độc đáo thì không hề dễ dàng, nếu còn tư duy ăn xổi, dựa vào những gì thiên nhiên ban tặng, chỉ tính tới nguồn trước mắt mà chưa có chiến lược phát triển bền vững.

Để tạo sức bật cho du lịch nội địa, ông Đoàn Mạnh Cương, công tác tại Vụ Đào tạo (Bộ VH-TT&DL) đề xuất, các địa phương cần xây dựng điểm đến du lịch có sức hút vì du khách luôn có một ấn tượng nào đó về sản phẩm mà họ muốn đến. Chẳng hạn, quảng bá du lịch qua điện ảnh là điều không mới đối với nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng ở Việt Nam thì chưa được chú trọng. Ông Cường lấy dẫn chứng về cách làm của điện ảnh Hàn Quốc khi quốc gia này công chiếu bộ phim về nàng Dae Jang Geum. Ngay sau đó, lượng khách du lịch đến Hàn Quốc tăng vọt và hầu hết du khách nói rằng họ muốn được tận mắt chứng kiến địa điểm mà nhân vật – thần tượng trong phim đã đặt chân đến.

Cùng ý kiến nêu trên, nhiều nhà sản xuất điện ảnh cũng lấy thí dụ về bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” của đạo diễn Victor Vũ lấy ngoại cảnh là vùng đất Phú Yên tạo ấn tượng tốt cho khách du lịch. “Việt Nam đâu đâu cũng có cảnh đẹp, nhiều bộ phim đạt giải thưởng trong nước và quốc tế với những bối cảnh cũng không thua kém “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”, thế nhưng điều đáng tiếc là bản thân các địa phương và điện ảnh chưa có sự ăn khớp, cũng như chưa biết tận dụng tốt cơ hội để quảng bá du lịch”, ông Cương nói.

Ngoài kết hợp với hiệu ứng của điện ảnh, các loại hình du lịch hiện đại cũng đang bước đầu được phát triển ở nước ta, như: du lịch ẩm thực, du lịch khảo cứu đồng quê, nhà vườn, trong đó có đồn điền cao su; du lịch biển đảo, du lịch thiên nhiên hoang dã – Safari, du lịch thiện nguyện, du lịch tâm linh, du lịch thể thao mạo hiểm, du lịch carnavan,…

Ông Noemie Robin, Lãnh sự quán Cộng hòa Pháp tại TP HCM lưu ý, Việt Nam cần lưu tâm các loại hình du lịch đại trà. Bởi vì, du lịch đại trà cho phép nhiều người và gia đình hưởng thụ các kỳ nghỉ, với giá cả phải chăng, nhưng lại gây ra các hậu quả về sinh thái, như lãng phí nước, vấn đề rác thải, phá hủy tài nguyên thiên nhiên, hoặc tác động tiêu cực lên người dân địa phương khi họ thấy môi trường của họ bị hủy hoại, văn hóa bị pha trộn.

“Nguyên nhân của việc chưa tận dụng được tiềm năng “rừng vàng, biển bạc” của ngành du lịch, đó là do đầu tư chưa đúng mức; cơ sở hạ tầng yếu kém, chất lượng dịch vụ chưa cao; việc quản lý du lịch chưa chặt chẽ, hợp lý, khiến cho các điểm đến du lịch có nhiều nguy cơ và gây phiền hà khách du lịch” - TS. Vũ Khắc Chương – Hiệu trưởng trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Sài Gòn nêu.

Thành Luân     (Còn nữa)