Lịch sử đã chứng minh, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là vô địch. Nhân kỷ niệm 72 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, GS TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội đã dành cho ĐĐK cuộc trao đổi xung quanh vấn đề này.
GS TSKH Vũ Minh Giang.
PV: Thưa ông, kể từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tới nay, đất nước đã trải qua nhiều thử thách cam go, nhưng chúng ta đã có những thành công lớn lao. Theo ông, đâu là nguyên nhân dẫn đến những thành công ấy?
GS TSKH Vũ Minh Giang: Việt Nam là đất nước có quá trình lịch sử không giống với bất cứ nước nào trên thế giới. Lập quốc diễn ra tương đối sớm với ý nghĩa phát triển về mặt kinh tế- xã hội. Khi Nhà nước ra đời chưa bao lâu thì đứng trước nguy cơ một mất một còn của dân tộc là độc lập chủ quyền khi chịu hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Đây là hiện tượng có một không hai trong lịch sử vì không dân tộc nào có thể trụ nổi hơn 1.000 năm đô hộ của thế lực, cai trị liên tục với các chính sách đồng hóa nhưng ta lại giành lại được độc lập. Từ lúc giành được độc lập trong thế kỷ 10 đến thế kỷ 20, nguy cơ chủ quyền đất nước bị xâm lấn, đe dọa, không ít các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm đã được ta tiến hành để giữ gìn độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Có thể nói không thế kỷ nào người Việt Nam được yên và hoàn cảnh lịch sử đã trui rèn cho người Việt Nam những phẩm chất đặc biệt như ý thức dân tộc rất sâu sắc, kiên cường bất khuất thể hiện trong tất cả mọi lúc mọi nơi. Tương ứng với cộng đồng cư dân là có hệ thống chính quyền chịu trách nhiệm trước dân tộc.
Sự thành lập và lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản đã thổi vào dân tộc sinh khí mới, nhưng quan trọng là tạo ra mối liên kết rộng rãi, khối đại đoàn kết toàn dân. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chỉ sau đó ít ngày, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước quốc dân đồng bào và quốc tế biết từ nay trở đi chính quyền này đã được thành lập. Sau đó ngày 6-1-1946 chúng ta tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội, Quốc hội bầu ra Chính phủ. Những sự kiện lớn đó chính là bài học lịch sử sau này trở thành kim chỉ nam cho chính quyền và luôn luôn được phát huy. Trong lúc vô vàn khó khăn như thế nhưng lòng dân luôn hướng về một nơi đó là Đảng, cụ Hồ, Chính phủ. Chính sức mạnh đại đoàn kết của dân tộc là vô địch, chúng ta giành thắng lợi chính là dựa vào khối đại đoàn kết toàn dân, khi đáp ứng được khát vọng của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám cũng như chính quyền nhân dân còn non trẻ nhưng vẫn đứng vững chính là do khối đại đoàn kết toàn dân. Nhưng để có sự đồng tình phải duy trì được tính chính nghĩa, và người lãnh đạo đã đáp ứng được khát vọng của người dân từ đó tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân. Chính điều đó giúp ta vượt qua được hiểm nghèo và giành thắng lợi ở Điện Biên Phủ 9 năm sau đó, buộc Pháp phải ký vào hiệp định Giơnevơ. Có điều chúng ta cần làm rõ là Quân đội Viễn chinh Pháp không hề kém, vũ khí sử dụng hiện đại, dồi dào do được Mỹ hậu thuẫn, tướng lĩnh huy động cho cuộc chiến ở Đông Dương đều là những tướng giỏi nhưng họ vẫn thua. Đây là điều chính họ cũng không giải thích, hình dung được.
Điều thần kỳ nằm ở hai chữ Nhân Dân. Bài học Điện Biên Phủ cho thấy, khi phát huy được sức mạnh toàn dân thì giành được chiến thắng. Sau đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bài học lịch sử đã được nâng lên tầm cao mới là phải đáp ứng khát vọng của Nhân dân, và tổ chức để đoàn kết toàn dân, nêu cao ngọn cờ chính nghĩa.
Nhưng lịch sử cũng có khúc quanh, sau năm 1975, có lẽ không lường hết được những khó khăn của thời kỳ hòa bình là đòi hỏi của dân lúc này là ấm no hạnh phúc khi đã có độc lập, thống nhất. Không đủ cơm ăn, áo mặc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đành rằng lúc đó chúng ta bộn bề trăm công nghìn việc, nhưng có một thực tế là đã không chú ý đúng mức đến phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho dân mà say sưa ca ngợi chiến thắng quá lâu. Gần 10 năm trời chúng ta bận rộn với mít tinh, lễ lạt trong khi kinh tế suy thoái, lạm phát phi mã, hàng hóa thiếu thốn dẫn tới khủng hoảng khiến đời sống nhân dân lâm vào tình cảnh cực kỳ khó khăn. Nhưng rất may Đảng đã nhận ra nếu không thay đổi thì việc giữ được thành quả cách mạng là vô cùng khó khăn. Đó chính là động lực để tiến hành công cuộc đổi mới từ sau Đại hội VI năm 1986. Đại hội VI đã đưa ra chủ trương đổi mới, không cấm chợ ngăn sông mà được tự do buôn bán, phát triển kinh tế nhiều thành phần và nhanh chóng mở cửa với thế giới đã xoay chuyển tình hình đất nước.
Cho đến nay, sau 30 năm đổi mới, rõ ràng ta đã đáp ứng được cho nhân dân, những bức xúc đã được giải tỏa, cuộc sống người dân đã khá hơn vì thế khối đoàn kết toàn dân cũng được tăng cường. 30 năm đổi mới, không chỉ đem lại về mặt kinh tế mà tạo ra bầu không khí hòa giải trong nước và quốc tế. Hiện chúng ta đã hội nhập quốc tế tương đối sâu, những người kỳ thị về ta đã thay đổi cách nhìn nhận. Cho nên thành công cho đến ngày nay là xoay quanh tính chính nghĩa, chính đáng của Việt Nam, đáp ứng được khát vọng của nhân dân và duy trì mối quan hệ đoàn kết.
Thưa ông, thành công sau 30 năm đổi mới đã được ghi nhận, nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng gặp phải không ít những thách thức và bộc lộ nhiều yếu kém?
- Hiện nay cần nhìn thẳng vào sự thật là có những nổi cộm như niềm tin đang bị xói mòn. Đó là lòng tin của người dân với lãnh đạo, lòng tin giữa con người đều đang bị sứt mẻ. Nhiều dấu hiệu cho thấy quan hệ thiếu thiện chí, ghen tỵ lẫn nhau đang có chiều hướng gia tăng. Các thế lực thù địch có vẻ xuất hiện ngày càng nhiều và tiếng nói ngày càng dữ dằn rồi đồn đoán với dụng ý xấu lan truyền rất nhanh. Hay những nhức nhối từ trong Đảng cho đến xã hội là nạn tham nhũng, cửa quyền... Dường như đất nước đang đứng trước những nguy cơ và thử thách hiểm nghèo mới.
Vậy điều gì đang xảy ra?
- Cần phải phải thấy rằng nhu cầu của nhân dân ngày càng tăng là một quy luật khách quan. Nếu như trước đây khi ta còn thiếu đói thì có bát cơm đầy đã là hạnh phúc, nhưng khi đã no thì lại muốn ăn ngon, giống như có xe đạp thì thích xe máy, có xe máy thì thích ô tô... Bên cạnh đó nhu cầu của người dân là được sống trong môi trường xã hội lành mạnh, an ninh và được đảm bảo các quyền tự do theo luật định. Người dân muốn đòi hỏi một chính quyền vì dân và trong sạch. Bây giờ người dân hay nói nhiều là cán bộ hưởng lương từ tiền thuế của dân thì phải phục vụ dân, quyền lực được nhân dân trao cho nhưng mức độ đáp ứng lại bị hạn chế, tệ quan liêu xuất hiện ngày càng trầm trọng. Cho nên phải ý thức được mình đang cầm quyền dân trao, nhưng ta chưa chú ý đến giáo dục người được trao quyền lực nên dẫn đến tha hóa quyền lực, dẫn đến tham ô, tham nhũng, cậy quyền mà hành dân dẫn đến nhân dân bất bình.
Kinh tế thị trường là thực thể thúc đẩy sự phát triển nhưng sức mạnh đồng tiền có thể xoay chuyển nhiều mối quan hệ, nếu không có chế tài chặt chẽ và những quy định về luật pháp, cũng như các giải pháp chính trị để hóa giải thì nó sẽ tự phát hoành hành. Dường như chúng ta chưa tìm được biện pháp hữu hiệu để hóa giải mãnh lực chi phối của đồng tiền. Đồng tiền đang thao túng mọi nơi, mọi lúc, mọi quan hệ… cái gì cũng phải cần đến tiền. Từ quan hệ cấp trên - cấp dưới, phụ huynh với thầy cô giáo, bạn bè, gia đình...
Điều không ai muốn nói ra nhưng trên thực tế tiền đang trở thành thước đo các mối quan hệ này. Đó không phải là cái không hóa giải được nhưng ta chưa có ý thức đầy đủ trong việc đó. Ngoài ra khi hội nhập, phải giữ vững được chủ động, chủ quyền. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay có 3 nguyên tắc cơ bản là win-win (cùng thắng), nghĩa là đừng để thắng cho anh mà người ta thua thì không ai chịu thua hết, phải tính sao để cùng thắng; thứ hai là Sharing (biết chia sẻ) nghĩa là phải biết chia sẻ chứ không ăn cả được; và thứ ba là đôi lúc phải Trade off (đánh đổi), tức là phải chấp nhận đánh đổi chứ khó có thể giữ được tất cả mọi thứ. Nhưng đánh đổi sao cho có lại đòi hỏi phải có trình độ và trí tuệ.
Vậy thưa ông trong bối cảnh đó thì chúng ta cần có giải pháp nào, dựa vào bài học lịch sử nào để áp dụng trong hoàn cảnh hiện nay?
- Lời giải bài toán này phải xuất phát từ cái gốc là tin vào nhân dân. Hơn 1.000 năm ngoại bang tìm mọi cách đồng hóa mà không làm được thì không dễ làm cho biến mất được một dân tộc như Việt Nam. Cũng dân tộc ấy đã từng đứng dưới cờ triều Trần làm nên những kỳ tích 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông, một đế chế khiến cả thế giới khiếp đảm, từng đi theo Đảng đánh đuổi Thực dân Pháp hùng mạnh, Đế quốc Mỹ sừng sỏ...
Nhưng như Nguyễn Trãi đã từng ví dân với hình tượng nước, chở thuyền và lật thuyền cũng là do dân. Do vậy phải làm sao để dân thấy chính quyền này thực sự là của dân, do dân và đang vì dân, đúng với bởi bản chất mà chúng ta thường nói. Mọi quyền lực đều là của dân thì chính quyền phải lễ phép, coi trọng nhân dân thì dân mới yêu, dân yêu thì có thể giải quyết được tất cả.
Ngoài ra còn có sức mạnh vượt lên trên sức mạnh vật chất chính là văn hóa, mà văn hóa gắn với con người. Hiện nay ta chưa chú ý đúng mức đến vai trò của con người ở trong sự phát triển. Trong chiến lược về con người, chiến lược nhân tài là quan trọng, nhân tài là cái hiếm nhất trong mọi thứ quý giá. Nhưng hiếm hơn lại là tài dụng người tài. Chính vì vậy mà giải pháp căn cơ không phải là những quyết định vụn vặt mà phải làm sao tìm ra cơ chế cho nhiều người có tài vào đội ngũ lãnh đạo. Người tài ra giúp nước thì những khó khăn sẽ được đẩy lùi. Đã đến lúc phải có chiến lược về nhân tài, thực sự dùng người tài thì khó khăn bay biến hết. Chúng ta đã trải qua lịch sử, bài học cụ thể đủ cơ sở để có lòng tin. Đảng đã đưa dân tộc ra khỏi màn đêm gần một thế kỷ và đưa dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng để đưa dân tộc đến với những bến bờ vinh quang mới nhưng phải lưu ý khát vọng độc lập dân tộc, ý thức độc lập chủ quyền đối với người Việt Nam luôn luôn là cao nhất như lời Cụ Hồ đã nói: Không có gì quý hơn độc lập tự do. Cho nên trọng dụng nhân tài là vô cùng quan trọng. Trong văn kiện đại hội XII của Đảng đã đưa ra vấn đề đặt lợi ích quốc gia là một nguyên tắc để quyết định mọi việc, lấy đó là hệ quy chiếu. Có Đảng, chính quyền thể hiện sự nghiệp của mình, mọi nỗ lực vì độc lập của dân tộc, vì quyền lợi của quốc gia, vì hạnh phúc của nhân dân thì lòng tin sẽ được củng cố và tệ cực đoan dần dần sẽ ít đi.
Hiện có việc thế lực thù địch đang tìm cách chống phá chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vậy chúng ta phải có giải pháp ứng phó như thế nào, thưa ông?
- Tại sao hồi ta tiến hành Đại hội XII của Đảng thì những đồn đoán linh tinh về đại hội lại bị triệt tiêu? Đó là bởi mọi chuyện của đại hội được nhân dân biết cả. Cho nên thời buổi thông tin, truyền thông đóng vai trò vô cùng quan trọng. Sở dĩ vừa rồi dấy lên những thông tin thất thiệt của thế lực thù địch là để gây hoảng loạn trong dân chúng. Ta phải hiểu như hiện tượng có tính quy luật của thời đại, thông tin bùng nổ tác động của tin đồn mãnh liệt lắm. Một tin đồn thổi ra, người ta có thể vẽ thêm “tai, râu” cho nó. Nếu như tất cả mọi chuyện là bịa đặt thì minh bạch hóa thông tin là giải pháp quan trọng nhất. Còn trường hợp cần phải định hướng thông tin theo chiều hướng nào cũng phải tổ chức bài bản khoa học. Cứ để “u u minh minh” sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự bịa đặt, thêu dệt xuyên tạc và đưa ra những nhận định bất lợi cho chúng ta vì thế minh bạch hóa thông tin là cách làm tối ưu và hiệu quả nhất.
Trân trọng cảm ơn ông!