Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài, nhà tổ chức vĩ đại. Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta những di sản vô giá mà một trong những di sản đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số dự Kỳ họp lần thứ I, Quốc hội khóa III tại Hà Nội. Ảnh: tư liệu.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng. Cách mạng muốn thành công phải có lực lượng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng xã hội mới. Việc xây dựng lực lượng trong nước có ý nghĩa quyết định “để tự ta giải phóng cho ta”, vì “đoàn kết là lực lượng vô địch”. Người cho rằng cách mạng là công việc chung chứ không phải là công việc của một vài người. Cách mạng là một việc khó nhưng biết cách làm, biết đồng tâm, hiệp lực mà làm thì chắc chắn làm được. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một khối. Đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù. Người khẳng định: “Nhờ đại đoàn kết toàn dân tộc mà trong bao thế kỷ nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do của mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm cách mạng tháng Tám thành công và đã kháng chiến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất”.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược. Đó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù.
Người căn dặn: Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, được xây dựng trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của đất nước và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc.
Đi đôi với việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa dân tộc và quốc tế.
Vì vậy, muốn cách mạng thành công, phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng - lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước - cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân. Như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII đã chỉ rõ: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng, tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam, tăng cường mối quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà cũng là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của toàn dân tộc.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Với nhận thức “có dân là có tất cả”, Người đã dành cả cuộc đời của mình để tạo dựng, chăm lo cho rừng cây đại đoàn kết dân tộc đâm chồi, nẩy lộc, nở hoa kết trái. Người căn dặn chúng ta: Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của tổ tiên; phải có lòng khoan dung, đại độ với mọi người.
Một sáng tạo lớn, đồng thời là một cống hiến lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới là việc đề xướng thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cách mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả một dân tộc để đánh đổ ách thống trị của nước ngoài. Giai cấp vô sản không thể tự mình làm nổi mà phải liên minh với các lực lượng yêu nước trong dân tộc”. Và “cuộc cách mạng trong một nước thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi có thể và cần phải thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa”.
Vì vậy theo Người: Đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan điểm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung chung, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Như Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 5 năm 1983: “Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn luôn thấy ở mỗi người Việt Nam một người yêu nước và Mặt trận là sự tập hợp và nhân lên gấp bội nhiệt tình yêu nước đó”.
Năm 1930, gần như cùng một thời gian Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thì các đoàn thể cách mạng của công nhân, nông dân cũng được thành lập và Hội Phản đế đồng minh - hình thức đầu tiên của Mặt trận cũng xuất hiện.
Trong quá trình cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, nội dung và hình thức tổ chức của Mặt trận có sự thay đổi để phù hợp với nhiệm vụ cách mạng từng lúc, từng nơi. Đó là: Mặt trận Dân chủ Đông Dương trong những năm đấu tranh hợp pháp 1936-1939; Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật dẫn đến thành công của cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống Pháp; Mặt trận Tổ quốc VIệt Nam ở miền Bắc, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Liên minh Các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt.
Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc, trong Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh Các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân ta làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Kế tục vai trò lịch sử của các hình thức tổ chức Mặt trận trước đây, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX nhiệm kỳ 2019-2024 quyết nghị: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc VIệt Nam, tăng cường củng cố liên minh chính trị, xây dựng và củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thực hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, tăng cường đồng thuận xã hội, thúc đẩy tinh thần thi đua sáng tạo, phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, giữ vững hòa bình, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí tự lực tự cường, sự kết hợp hài hòa lợi ích của mỗi người, mỗi gia đình với lợi ích toàn xã hội là lẽ sống, là động lực để nhân dân ta thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mà Đại hội đã đề ra.