Suy nghĩ tích cực là suy nghĩ cho thế hệ tương lai
Các thế hệ đời người, các lứa tuổi khác nhau có gì liên quan, có gì gắn kết, có gì ảnh hưởng đến nhau? Đây là một câu hỏi lớn và cực kỳ quan trọng trong hàng trăm năm nay, từ khi triết học nhân sinh đã trở thành một môn khoa học vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội và gần như đã hoàn chỉnh khi con người bước vào thế kỷ XXI.
Một tờ báo tiếng Pháp có uy tín đã đăng tải ý kiến sau đây mà chúng tôi, nhóm bạn bè từ U90 trở xuống đến U50 thỉnh thoảng gặp nhau để hàn huyên, trao đổi về Triết học bình dân, rất tâm đắc là: “Suy nghĩ tích cực là phải suy nghĩ cho các thế hệ tương lai”.

Bài viết này hướng về cách nhìn nhận tuổi trẻ và tuổi già qua các danh ngôn đã được công nhận qua thử thách của thời gian cả về lý thuyết lẫn thực tế cuộc đời.
Trước hết, khi thảo luận về tuổi trẻ thì mọi người dễ thống nhất rằng: “Tuổi trẻ là hy vọng của gia đình, của xã hội, của đất nước”. Nhưng đến khi thảo luận về “Tuổi trẻ là tương lai của xã hội” thì có nhiều ý kiến bổ sung như:
Tuổi trẻ muốn là tương lai của xã hội thì bắt buộc phải được chuẩn bị tốt, tức là phải được dạy, được huấn luyện, được thực hành về đạo lý làm người từ khi còn nhỏ. Rất mừng là chiều hướng này đang được làm rất tốt bằng các cách giáo dục cộng đồng thông qua phát thanh, truyền hình, báo giấy, báo mạng. Trên các hình thức giáo dục này đã luôn đưa ra các dẫn chứng người tốt việc tốt cho cộng đồng các bạn trẻ trong xã hội, bao gồm thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên và các lao động trẻ. Chính những tấm gương cụ thể về Đạo lý biết ơn và trả ơn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc, các tấm gương hy sinh dũng cảm trong thời bình của bộ đội, của công an, của các con người cụ thể như: người cứu hỏa, cứu nạn giao thông, cứu đuối nước, chống bão lụt ... có khi phải hy sinh cả tính mạng để cứu người đã có tác dụng giáo dục rất tốt cho các thế hệ trẻ noi theo.
Tuổi trẻ muốn có tương lai, muốn là “Tương lai của đất nước” phải được chuẩn bị tốt về học nghề, hướng nghiệp tốt và định hướng tốt. Gần đây đã có nhiều hình thức hội thảo tư vấn, hướng nghiệp cho học sinh phổ thông trung học chọn các trường Đại học, các trường dạy nghề một cách cụ thể và tỉ mỉ. Rất đặc biệt và thật cần thiết, cấp bách là việc trang bị từ nhỏ tư duy 4.0, tức là giúp các bạn trẻ làm quen sớm và tiến đến thành thạo công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa, số hóa, xanh hóa, rô bốt hóa ...
Thế có dạy tuổi trẻ cách làm giàu không? Có dạy kiếm thật nhiều tiền không?
Ngày trước, cũng chưa xa, nhiều gia đình Việt Nam có nề nếp, có văn hóa, có giáo dục đã quan tâm tỉ mỉ trong việc dạy con, dạy cháu cách “học làm người” trước khi “dạy chúng kiếm tiền”, vì họ đã nhìn thấu rất rõ ràng, rất cụ thể cái sự giàu có bất lương, bất chính sẽ dẫn đến những tai hại khôn lường cho con, cho cháu họ.
Đại văn hào người Pháp, ông Alfred de Musset (1810 – 1857) đã khẩn thiết nhắc nhở tuổi trẻ nên nghĩ đến tương lai của xã hội, của gia đình, của bản thân hơn là những hưởng lạc cá nhân khi ông viết: “Hỡi các bạn trẻ, tôi tha thiết khẩn nguyện các em hãy để tâm đến những sự nghiệp lớn đang chờ đợi các em”. Rất cụ thể, sự nghiệp lớn lao đó là: Giúp cho xã hội phát triển về văn hóa, giáo dục, công nghệ, khoa học ...
Theo các sách “Dạy làm người”, sách “Học làm người” kể cả ở phương Đông lẫn phương Tây, người ta đều muốn dạy bảo cho người thiếu niên, thanh niên suốt đời phải “Cần công kiệm học”, lấy siêng năng chăm chỉ làm thước đo cho sự tiến thân về lâu dài. Một ngạn ngữ của Đông phương Cổ học Tinh hoa đã dạy: “Đạm bạc dĩ minh chí” (tạm dịch: Phải rèn luyện sống đạm bạc để cho cái chí được trong sáng). Đây là một triết lý sống tuyệt đối đúng đắn và khoa học. Sống đạm bạc ít sinh ra bệnh tật, ít sinh tai họa trong cuộc đời mình, để có một tuổi trẻ sôi nổi, năng động và một tuổi già vui vẻ, yên tĩnh. Chả thế mà ở thế kỷ trước, nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh đã có một tổng kết về tuổi trẻ và tuổi già rất hay: “Tôi không buồn những buổi chiều/ Bởi vì tôi đã sống nhiều ban mai”. Ban mai đây chính là tuổi trẻ thận trọng, ham học hỏi, tràn đầy khát khao dâng hiến cho cuộc đời. Lại có những cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, những thầy giáo già suốt đời tận tụy với bao thế hệ học sinh ... khi họ gặp lại nhau tay bắt mặt mừng: “Bao nhiêu kỷ niệm thời xa vắng/ Sưởi ấm tim ta lúc tuổi già”. Lẽ dĩ nhiên chỉ có những chiến công, những đóng góp xương máu, mồ hôi, sức lực lúc thanh xuân cho Tổ quốc, cho quê hương, cho làng xóm, cho gia đình ... mới giúp ta sưởi ấm được lúc xế chiều, buổi hoàng hôn se lạnh của cuộc đời.
Chính Napoléon đệ nhất (1769 – 1821) đã tổng kết: “Mỗi giờ mất đi vô ích khi ta còn trẻ là một triệu chứng bất hạnh cho tương lai”. Vì thế phải nhận thức rất rõ khi ta còn là thiếu niên, thanh niên rằng mỗi giây mỗi phút của tuổi trẻ là phải học tập, phải tu dưỡng, nỗ lực cống hiến mới có thể tránh được cái khó khăn, cái bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai gần hoặc tương lai xa.
Nữ nhà văn người Áo, bà Marie Ebner Eschenbach (1830 – 1916) đã cắt nghĩa rõ hơn: “Lúc trẻ ta phải học hỏi thì đến lúc già ta mới thấu hiểu”. Thế mới biết, có người tham gia nhiều lớp học cấp tốc để học hết cái nọ đến cái kia, có khi mất rất nhiều tiền học phí, mất rất nhiều thời gian mà không vẫn hoàn không. Vì sao thế? Vì cái gì cũng vậy, đặc biệt là kiến thức phải có thời gian để thấm dần dần, để ngấm từng ít một và cần nhất phải có thực hành. Thực hành nhiều lần, có lần thất bại, có lần thành công, cứ thế mãi mãi kiên nhẫn trên bước đường đời gian khó thì may ra đến một độ tuổi nào đó, thậm chí đến lúc trung niên, lúc về già ta mới thật thấu hiểu được ý nghĩa của công việc mình làm, hiểu được phần nào ý nghĩa của cuộc đời.
Đông phương cổ học Tinh hoa đã tổng kết rất chuẩn sự kết nối giữa các lứa tuổi qua đoạn văn sau đây: “Tam thập nhi lập. Tứ thập bất hoặc. Ngũ, lục thập tri thiên mệnh” (tạm dịch: Đến 30 tuổi con người ta đã trưởng thành, có thể tự lập được. Đến 40 tuổi, mọi việc đã rõ ràng, đã có nề nếp không còn phải băn khoăn thắc mắc điều gì. Đến 50, 60 tuổi con người đã vững vàng trong sự nghiệp của mình).
Còn đối với các triết gia phương Tây thì sắp xếp các độ tuổi của đời người ra sao? Theo nhà thơ người Anh, ông Tennyson (1809 – 1892) đã tổng kết rất ngắn gọn là: “Ở tuổi 20 tinh thần ngự trị, ở tuổi 30 ý chí ngự trị và ở tuổi 40 phán đoán ngự trị”. Bác sĩ thần kinh học người Canada, ông William Osler (1849 – 1919) đã gợi mở về độ tuổi khá chi tiết và khoa học như sau: “Con người ta cần học đến năm 25 tuổi, tìm tòi nghiên cứu đến năm 40 tuổi và làm việc chuyên nghiệp đến năm 60 tuổi”. Thực tế cuộc sống đã cho thấy việc định tuổi cho các công việc của Osler là hết sức khoa học và chớ nên đảo ngược. Bất đắc dĩ lắm mới nên học chuyên môn vào lúc 30 tuổi hay học tiếng Anh vào lúc 40 tuổi. Vì sao? Vì khả năng học tập tốt nhất, tiếp thu nhanh, học xong rồi nhớ lâu nhất phải là trước 25 tuổi. Trên cơ sở có cái vốn cơ bản rồi mới có thể tìm tòi, nghiên cứu sâu được.
Như vậy, muốn có được một tuổi già yên bình với tâm hồn thư thái, an yên thì lúc còn trẻ phải hết sức cố gắng học tập, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, rèn luyện sức khỏe, rèn luyện đạo đức, cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho quê hương để xứng đáng với khẩu hiệu “Tuổi trẻ là tương lai của xã hội” và suy nghĩ tích cực của xã hội là phải “Suy nghĩ cho các thế hệ tương lai”. Cứ thế, các thế hệ nối tiếp nhau, gắn kết, phát triển tốt. Ông cha ta đã mong muốn rất tích cực là: “Con hơn cha là nhà có phúc” luôn luôn đúng. Gia đình nào thực hiện được điều này mới xứng đáng là tiến bộ, là đi lên, là không tụt hậu.
Muốn có được một tuổi già yên bình với tâm hồn thư thái, an yên thì lúc còn trẻ phải hết sức cố gắng học tập, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm nghề nghiệp, rèn luyện sức khỏe, rèn luyện đạo đức, cống hiến nhiều nhất cho đất nước, cho quê hương để xứng đáng với khẩu hiệu “Tuổi trẻ là tương lai của xã hội” và suy nghĩ tích cực của xã hội là phải “Suy nghĩ cho các thế hệ tương lai”.