Kinh tế

Tăng “nội địa hóa” để sản xuất bền vững

Thanh Giang 22/08/2025 10:15

Tỷ lệ nội địa hóa thấp đang khiến nhiều ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, làm suy giảm lợi thế cạnh tranh. Chỉ khi chủ động nguồn cung trong nước và xây dựng chuỗi giá trị khép kín, doanh nghiệp Việt mới có thể phát triển bền vững và vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Nguyên liệu nhập khẩu chi phối nhiều ngành

Dù đạt nhiều thành tựu về xuất khẩu, nhiều ngành sản xuất chủ lực của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu, khiến giá trị gia tăng trong nước chưa cao. Thực trạng tỷ lệ nội địa hóa thấp không chỉ gây khó khăn cho nông dân và doanh nghiệp, mà còn tiềm ẩn nguy cơ làm mất đi lợi thế cạnh tranh nếu không có giải pháp kịp thời. Trong ngành dệt may, tình trạng phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu cũng không kém phần nghiêm trọng.

tren(1).jpg
Ngành dệt may hướng đến chủ động nguyên liệu. Ảnh: S.X

Ông Phạm Văn Việt – Phó Chủ tịch Hội Dệt may thêu đan TPHCM cho rằng, ngành này đang đối mặt với yêu cầu cấp thiết phải tái cấu trúc chuỗi cung ứng với chuỗi sản xuất khép kín ngay trong nước: từ sợi, dệt, nhuộm, hoàn tất cho tới logistics. Một số doanh nghiệp tiên phong như Công ty CP Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công (TCM) chủ động khép kín quy trình sản xuất từ nhập bông, kéo sợi, dệt, nhuộm đến may mặc. Nhờ đó, sản phẩm có thể chứng minh được xuất xứ nội địa, giúp giảm thiểu rủi ro về thuế quan. Tuy nhiên, không nhiều doanh nghiệp có đủ nguồn lực để làm điều này, khiến toàn ngành vẫn phải nhập khẩu tới hơn 60% nguyên liệu.

Ngành gỗ cũng đang chịu áp lực tương tự. Năm 2024, Việt Nam đã phải chi 2,81 tỷ USD để nhập khẩu gỗ nguyên liệu và sản phẩm gỗ. Trong 7 tháng đầu năm 2025, con số nhập khẩu đã đạt 1,99 tỷ USD, tăng tới 27,7% so với cùng kỳ năm trước. Muốn đạt mục tiêu xuất khẩu 18 tỷ USD năm 2025, ngành gỗ chắc chắn phải tiếp tục gia tăng nhập khẩu nguyên liệu, càng khiến áp lực nguồn cung thêm nặng nề. Tương tự, đối với ngành sữa, TS Nguyễn Xuân Dương – Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, chăn nuôi bò sữa trong nước nhiều năm qua vẫn mang tính nhỏ lẻ, manh mún và chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu. “Thị trường sữa Việt phụ thuộc lớn vào bột sữa nhập khẩu để hoàn nguyên thành sữa lỏng. Điều này khiến người tiêu dùng trong nước chưa được tiếp cận đầy đủ nguồn dinh dưỡng tối ưu từ sữa tươi, đồng thời làm giảm động lực phát triển của ngành chăn nuôi bò sữa. Người nông dân, thay vì trở thành mắt xích quan trọng, lại đứng ngoài chuỗi giá trị trên chính quê hương mình”, ông Dương nhấn mạnh.

Ở góc nhìn vĩ mô, TS Cấn Văn Lực – Chuyên gia kinh tế đã đưa ra những con số đáng lo ngại. Theo đó, ngành nông sản có tỷ lệ nội địa hóa 90%, nhưng ngành gỗ chỉ đạt 30-31%, dệt may và da giày 40-45% và ngành điện tử chỉ vỏn vẹn 10%. Trong khi theo thông lệ quốc tế, một sản phẩm có giá trị gia tăng trong nước từ 30-37% đã có thể được công nhận là “Made in Vietnam” thì thực tế của nhiều ngành lại ở mức thấp hơn nhiều so với kỳ vọng.

Quy hoạch, chính sách và nhân lực

Trước thực trạng trên, các chuyên gia và doanh nghiệp đã đưa ra nhiều kiến nghị, giảm phụ thuộc nhập khẩu và nâng cao giá trị gia tăng trong nước bằng cách tăng tỷ lệ nội địa hóa. Việc quy hoạch lại vùng nguyên liệu, hỗ trợ chính sách, thúc đẩy công nghệ, cũng như đào tạo nhân lực chất lượng cao là những giải pháp mang tính căn cơ. Chỉ khi đó, Việt Nam mới có thể xây dựng một nền sản xuất tự chủ, bền vững và gia tăng được lợi ích cho cả nông dân, doanh nghiệp lẫn nền kinh tế.

Theo nhận định của các chuyên gia, nếu không sớm khắc phục, ngành sữa Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội vàng để phát triển bền vững. TS Nguyễn Xuân Dương đề xuất, cần sớm quy hoạch lại vùng chăn nuôi bò sữa theo hướng tập trung, gắn chặt với vùng nguyên liệu thức ăn thô xanh để giảm chi phí vận chuyển, bảo đảm nguồn thức ăn ổn định và kiểm soát dịch bệnh. Song song đó, Nhà nước cần hoàn thiện thể chế, chính sách minh bạch về tiêu chuẩn chất lượng, đồng thời có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp ưu tiên sử dụng nguồn sữa tươi nội địa thay vì nhập khẩu bột sữa.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Quang Trí – Giám đốc điều hành Marketing Vinamilk kiến nghị, Nhà nước tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đơn giản hóa thủ tục đầu tư và đăng ký sản phẩm. Đồng thời, cần có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và đất đai để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng vùng nguyên liệu, phát triển sản phẩm chất lượng cao và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.

Với ngành dệt may, ông Phạm Văn Việt cho rằng cần thúc đẩy phát triển các nhà máy sợi, dệt, nhuộm trong nước, gắn với mô hình “nearshoring nội địa” để xây dựng chuỗi cung ứng khép kín. Điều này không chỉ giúp giảm phụ thuộc nguyên liệu từ các thị trường tiềm ẩn rủi ro, mà còn tạo ra lợi thế cạnh tranh về xuất xứ hàng hóa. Một số doanh nghiệp ngành may khác cũng cho rằng, việc đầu tư mạnh vào chuỗi sản xuất khép kín sẽ là chìa khóa để doanh nghiệp Việt vượt qua các rào cản thuế quan quốc tế. Trong ngành gỗ, nhiều ý kiến cho rằng cần khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu rừng trồng trong nước, áp dụng công nghệ chế biến sâu để tăng hàm lượng giá trị gia tăng thay vì chỉ gia công. Điều này cũng góp phần bảo đảm tính bền vững và giảm áp lực nhập khẩu.

TS Cấn Văn Lực nhấn mạnh cần đặt mục tiêu phấn đấu nâng tỷ lệ nội địa hóa của các ngành sản xuất chủ lực lên trên 50% để bảo đảm năng lực cạnh tranh và an toàn chuỗi cung ứng. Ông Lực đặc biệt lưu ý tới việc đào tạo nhân lực chất lượng cao, bởi rào cản hiện nay của ngành dệt may, ví dụ, chính là thiếu hụt kỹ sư và nhà thiết kế. “Về lâu dài, nếu không giải quyết được các vấn đề cốt lõi là tỉ lệ nội địa hóa và rủi ro trung chuyển, doanh nghiệp Việt sẽ dần mất đi lợi thế. Chúng ta phải tìm mọi cách tăng hàm lượng nội địa hóa. Muốn vậy, doanh nghiệp phải đầu tư để nhận chuyển giao công nghệ” - ông Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TPHCM (Huba) nói. Lãnh đạo Huba kiến nghị, TPHCM cần có những nghiên cứu sâu và chính sách cụ thể để hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình này.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Tăng “nội địa hóa” để sản xuất bền vững