Tinh hoa Việt

Thăm lại Nậm Thia

Trúc Mai 08/06/2025 09:31

Dân bản nói con gái tắm nước sông ấy thì đẹp da, tóc mượt, cơ thể thon gọn. Sông nhiều cá ngon, có loại được đưa vào danh sách các loài cá đặc sản Việt Nam.

1(5).jpg
Nậm Thia mùa nước cạn.

Ấy là Nậm Thia, hay Ngòi Thia, một dòng sông nhỏ chảy ở phía tây tỉnh Yên Bái. Sông dài khoảng 165 km, khởi nguồn từ nhiều con suối ở Trạm Tấu, Yên Bái, chảy theo hướng đông bắc, ngang qua thị xã Nghĩa Lộ. Sông nhận thêm nước từ nhiều con suối, con sông nhỏ hơn, tiếp tục chảy đến Văn Yên thì đổ ra sông Hồng.

Trong cộng đồng các dân tộc khu vực Tây Bắc, “ngòi” là từ chỉ các dòng nước lớn hơn suối nhưng chưa đạt cấp độ sông lớn. Ta có Ngòi Thia, Ngòi Lao, Ngòi Hút, Ngòi Lâu, Ngòi Bo, Ngòi Phát… hầu hết đều bắt nguồn từ các huyện vùng cao Yên Bái. Cái tên Nậm Thia được gán cho một truyền thuyết. Theo kho tàng truyện dân gian của người Thái vùng Mường Lò kể rằng từ xa xưa, dưới chân núi Trạm Tấu có một bản Thái. Nơi đó có một chàng trai vạm vỡ, tài săn bắn, giỏi thổi khèn. Chàng yêu cô gái đẹp nhất vùng. Cô khéo dệt vải, hát múa hay và có mái tóc dài mượt óng như tơ lụa, lúc nào cũng tỏa hương thơm.

Nhưng rồi một tên chúa đất trong vùng muốn bắt cô gái về làm vợ, buộc đôi trai gái phải cùng nhau chạy trốn. Họ đi mãi đến cùng trời cuối đất. Mệt quá, cả hai dừng lại. Cô gái khóc, cứ khóc mãi đến chết, nước mắt đổ xuống thành dòng suối lớn. Chàng trai thương cảm người tình, gieo mình xuống suối tự tử. Thế là từ ấy có suối Nậm Xia (nước mắt tình nhân). “Nậm” trong tiếng Thái có nghĩa là nước, suối. “Xia” hay Xía trong một số phương ngữ Thái Đen và Thái Trắng được sử dụng để chỉ người yêu, bạn tình hoặc người thương.

Có người nói, trải qua thời gian, qua những câu chuyện truyền miệng dân gian, lâu dần Nậm Xia bị gọi chệch thành Nậm Thia, suối Thia hay ngòi Thia như bây giờ.

Trong các bài hát khắp, truyện cổ và thơ ca dân gian của người Thái, hình ảnh “Nậm Xía” thường xuất hiện như một biểu tượng cho nỗi buồn, sự chia ly và tình yêu sâu đậm:

Nậm Xía chảy mãi không thôi,

Như nước mắt em rơi đêm dài…

Đây là cách người Thái thể hiện cảm xúc thông qua hình ảnh thiên nhiên, tạo nên một mối liên kết chặt chẽ giữa con người và môi trường xung quanh.

Người già kể lại, mỗi lần đứng bên sông, nghe tiếng gió thổi qua rặng lau, thấy lòng mình lặng đi, như có ai đó vừa thì thầm:

Nậm Xía xưa còn đó,

Người thương giờ nơi đâu

Thế nên, Nậm Thia không chỉ là một dòng nước mát lành chảy qua vùng Mường Lò, mà còn là chứng tích lặng thầm của một chuyện tình bi tráng ăn sâu vào tâm thức cộng đồng. Người dân ven sông không ai gọi tên suối ấy một cách vô hồn. Họ gọi với tất cả sự trân trọng, như gọi tên một người quen cũ, từng chứng kiến bao vui buồn, từng ấp ôm bao nhiêu phận người.

2(1).jpg
Món “pa khính pỉnh”.

“Ngày trước, mỗi độ hè về, nước sông trong veo, xanh ngắt. Trẻ con tha hồ tắm mát, người lớn thì bơi thuyền giăng lưới bắt cá”, anh Lò Văn Thi ở bản Sang Đốm, xã Nghĩa Lợi, thị xã Nghĩa Lộ nói.

Mà chẳng phải trẻ con, ở trong vùng, trẻ già trai gái đều ưa tắm suối, nhất là tắm ở Nậm Thia. Người ta đồn nhau rằng con gái Thái tắm nước suối Thia thì da trắng, tóc mượt, dáng người thon thả. Có bận, Đài phát thanh và truyền hình Yên Bái còn làm phóng sự về tác dụng làm đẹp của Ngòi Thia. Các cô, các mế được nhà đài phỏng vấn đều nói tắm nước Nậm Thia khiến con gái trong vùng ai cũng có dáng đi uyển chuyển, thắt đáy lưng ong, da trắng môi đỏ…

“Nhưng mà nay ngòi Thia lúc thì cạn nước, lúc thì lại có lũ chảy xiết, lòng sông toàn đá, không tắm được đâu”, bà Lường Thị Lợi (86 tuổi) ở ban Sang Đốm nói. Bà Lợi nói trước đây ngòi Thia nước đầy hơn, trừ những lúc vào mùa lũ thì đều chảy lững lờ, nước trong xanh, lòng sông bằng phẳng và rất sạch. Chiều chiều, đàn ông, đàn bà, trẻ con lũ lượt kéo nhau ra sông tắm.

“Bây giờ đầu nguồn có nhiều thủy điện, sông hầu hết thời gian là cạn, nhiều đoạn chỉ còn là những dòng chảy liu riu uốn lượn bên những chồng đá lổng chổng, hậu quả của những cơn lũ lớn sau này xuất hiện thường xuyên hơn. “Trong ngày có một vài lần thủy điện xả nước phát điện, mực nước dâng lên nhanh chóng, rồi lại rút đi”, anh Thi nói.

Anh bảo bây giờ không còn cảnh chiều chiều cả bản lũ lượt ra sông tắm nữa, chỉ còn lũ trẻ con vẫn thích nô giỡn dưới suối. “Chắc bây giờ theo đời sống mới, con gái bản cũng không còn thích tắm suối bởi nhà nào cũng có phòng tắm vòi hoa sen, vừa sạch sẽ vừa tiện lại kín đáo”, anh Thi nói.

Đời sống mới ấy cũng mang lại những đổi thay trong gia đình anh. Lần trước tôi lên thăm, anh vẫn là người nông dân chính hiệu, chỉ biết chăm ruộng nương, chăm đà gà đàn lợn. Bây giờ, ngoài làm ruộng, chăn nuôi, nhà anh Thi còn mở rộng, xây thêm cả nhà sàn cả nhà ngang như kiểu người dưới xuôi, để làm dịch vụ homestay. “Mỗi tháng đón vài chục khách, cũng có thêm đồng ra đồng vào, mà cuộc sống cũng thêm phần vui vẻ”, anh Thi (41 tuổi), cho hay. Anh cho biết để đủ điều kiện đón khách du lịch, chị Hòa vợ anh đã tham gia vài lớp tập huấn nghiệp vụ du lịch do Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh mở. Chị được học ngoại ngữ, học nấu ăn và một số kỹ năng, kiến thức phục vụ du khách.

Chiều đến, tôi theo anh Thi mang lưới ra sông bắt cá. Vốn thích câu cá, tôi cũng mang theo hai cây cần câu, hy vọng bắt được con gì đó góp vào bữa tối nay. Mặc dù ngòi Thia không còn hiền hòa như xưa nhưng dòng sông vẫn cho nước giúp bà con hai bên bờ canh tác hoa màu, cho tôm cá giúp bữa cơm vùng cao thêm đậm đà hương vị.

“Bây giờ không còn nhiều cá như ngày xưa, nhưng túc tắc vẫn đủ ngày hai bữa”, anh Thi bảo trong lúc vừa bơi thuyền, vừa thả lưới. “Ở ngòi Thia này có loài pa khính ngon lắm đấy”, anh nói.

Cá sỉnh, hay “pa khính” theo tiếng Thái, là loài cá đặc hữu của miền Tây Bắc. Ở Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai hay Yên Bái, ở đâu có suối là có loài cá này. Tuy nhiên, nhiều người nói cá sỉnh ngon, nhưng ngon nhất là cá sỉnh Nậm Thia.

Những con cá sỉnh thon đỏ, có bộ lườn săn chắc béo ngậy, được chế biến để tiếp khách quý và bè bạn với nhiều món ăn truyền thống. Đơn giản nhất là món “pa khính pỉnh” (cá sỉnh nướng) là cá sỉnh tươi thoa muối kẹp bằng gắp tre nướng trên than hồng, khi nào mỡ cá xèo xèo bốc mùi ngầy ngậy trên than, cá vàng đều, mang xuống chấm với muối, chanh, mắc khén (hạt tiêu rừng), gừng. Cầu kì hơn người Thái còn làm món “pa moốc” để đãi khách. Cá được bỏ ruột, cạo vẩy, dùng mắc khén, ớt, muối, tỏi, gừng tía... giã nhỏ nhồi vào bụng cá, dùng lạt nhỏ buộc kín lại. Cá được bọc nhiều lớp bằng lá chuối non, vùi vào tro nóng bên bếp lửa nhà sàn. Ngoài ra, người Thái còn dùng cá sỉnh để làm các món pa mẳm (cá mắm), pa khính xổm (cá chua), pa khính giảng (cá sấy gác bếp)... để ăn dần trong năm.

Ngồi cả buổi mà hai cây cần câu của tôi không một lần động đậy. May mắn thay, sau vài lần dỡ lưới, anh Thi cũng đã bắt được một ít cá mương và có cả “pa khính”, chừng hơn chục con. “Thế là đủ bữa rồi”, anh Thi bảo.

Tôi theo anh Thi lội ngược con dốc đất về lại bản khi trời đã sẩm tối. Gió từ sông thổi lên mát rượi, mang theo mùi ngai ngái của cỏ dại, thoảng lẫn mùi khói bếp từ những căn nhà sàn đã bắt đầu nổi lửa. Anh Thi mang cá sỉnh nướng trên than, vừa làm vừa kể chuyện khách nước ngoài lần trước ăn món “pa khính pỉnh” cứ khen “number one” mãi.

Trước khi đi ngủ, tôi đứng trên sàn gỗ nhìn ra sông. Nậm Thia khi đêm xuống lại trở về vẻ trầm mặc, dịu dàng. Tiếng nước róc rách dưới chân bản như lời thủ thỉ của đất trời, như tiếng thở dài của người con gái năm xưa vẫn còn vọng lại trong đá, trong nước, trong cây cỏ hai bên bờ. Dòng sông ấy, qua bao biến đổi, vẫn còn đó, chảy không chỉ bằng nước, mà bằng cả ký ức và tình yêu của một vùng đất.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Thăm lại Nậm Thia