Thị trường vàng Việt Nam đang trải qua giai đoạn biến động
Tình trạng xếp hàng mua vàng chỉ phản ánh phần nổi của khó khăn, còn phía sau là sự thiếu hụt kéo dài của nguồn cung nguyên liệu chính thức.
Tại Diễn đàn “Thị trường vàng Việt Nam: Thuận lợi và thách thức trong giai đoạn mới” do Báo Kinh tế và Đô thị phối hợp với Hội mỹ nghệ kim hoàn TP Hà Nội tổ chức chiều ngày 24/11, ông Vũ Hùng Sơn - Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Vàng bạc đá quý Bảo Tín Mạnh Hải, Tổng Thư ký Hiệp hội Kinh doanh Vàng, chia sẻ thị trường vàng Việt Nam đang trải qua giai đoạn nhiều biến động khi cả người dân lẫn doanh nghiệp đều đối mặt với những trở ngại chưa từng có. Tình trạng xếp hàng mua vàng chỉ phản ánh phần nổi của khó khăn, còn phía sau là sự thiếu hụt kéo dài của nguồn cung nguyên liệu chính thức.
Ông Vũ Hùng Sơn giãi bày, suốt 13 năm qua, doanh nghiệp kinh doanh vàng không có cơ chế tiếp cận nguồn nguyên liệu vàng chính thức.

Việc không thể tiếp cận vàng nhập khẩu theo cơ chế rõ ràng đã khiến các doanh nghiệp buộc phải sử dụng nguồn vàng “trôi nổi”, chấp nhận rủi ro để duy trì sản xuất và có hàng cung ứng ra thị trường. Nguồn cung hạn chế cũng đẩy giá vàng trong nước lên cao, trong khi người dân lại khó hoặc không thể mua được. Toàn bộ hệ thống cửa hàng phải đầu tư máy hiện đại để kiểm tra chất lượng vàng, thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm thủ công như trước. Đây là nghịch lý đáng lo ngại đối với một ngành nghề có giá trị gia tăng rất cao.
Trong khi đó TS Lê Xuân Nghĩa- Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, nhìn lại câu chuyện quản lý thị trường vàng tại Việt Nam thì đây là vấn đề đã kéo dài từ trước năm 1948 cho đến nay và vẫn để lại nhiều hệ lụy. Theo ông, đôi khi chúng ta nhìn vàng như một thứ gì đó quá ghê gớm, nhưng thực ra nhiều vấn đề không phức tạp đến thế.
Dẫn số liệu của các tổ chức quốc tế và cơ quan quản lý, TS Nghĩa cho rằng lượng vàng nhập khẩu chính ngạch vào Việt Nam mỗi năm rất nhỏ, ước tính chỉ khoảng 5 tấn, tương đương hơn 5 tỷ USD. Con số này thấp hơn nhiều so với giá trị nhập khẩu của các mặt hàng tiêu dùng khác. Ông Nghĩa dẫn chứng như hiện mỹ phẩm nhập khẩu của ta hằng năm lên tới 11 tỷ USD, sữa và các chế phẩm từ sữa khoảng gần 5 tỷ USD. “Tại sao chúng ta coi nhập vàng là nghiêm trọng, trong khi nhập khẩu mỹ phẩm hay sữa gấp đôi, gấp ba thì lại ít người nói?" - ông Nghĩa đặt câu hỏi.
TS Lê Xuân Nghĩa cho rằng, chính sự độc quyền trong nhập khẩu vàng miếng đã dẫn tới thị trường méo mó, người dân chịu thiệt. “Cơ quan quản lý không nhập chính thức, thì người dân buộc phải mua vàng nhập lậu, mua hàng kém chuẩn. Đó là điều vô lý.” Ông Nghĩa nhấn mạnh, quản lý thị trường không thể chỉ dựa trên tư duy “siết cho chặt” mà bỏ qua quyền lợi người dân.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, yêu cầu quan trọng nhất hiện nay là cần bỏ độc quyền xuất, nhập khẩu vàng miếng của ngân hàng thương mại. Đây là điểm mấu chốt để đảm bảo thị trường minh bạch, giá vàng trong nước tiệm cận thế giới, giảm buôn lậu và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân.
Theo ông, bên cạnh việc chấm dứt độc quyền xuất, nhập khẩu vàng miếng của ngân hàng thương mại, cần thực hiện ba thay đổi quan trọng:
Thứ nhất, bỏ độc quyền quản lý thị trường vàng của SJC. Thứ hai, cho phép một số ngân hàng thương mại lớn được tham gia kinh doanh và sản xuất vàng miếng, đáp ứng trực tiếp nhu cầu vàng miếng trong dân. Thứ ba, tham khảo mô hình Trung Quốc: trong 13 doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh và dập vàng miếng, Trung Quốc cho phép 5 ngân hàng thương mại tham gia.
Các ngân hàng có lợi thế về thanh toán quốc tế, giao dịch ngoại thương, công nghệ và khả năng xử lý biến động giá theo giờ. “Họ có thông tin, có kỹ năng quản trị rủi ro, đủ điều kiện để tham gia thị trường vàng bài bản” - TS Nghĩa nhấn mạnh.
Ngoài ngân hàng, một số doanh nghiệp đủ năng lực, vốn điều lệ từ 1.000 tỷ đồng trở lên cũng có thể được cấp phép kinh doanh vàng miếng, song vẫn cần kiểm soát chặt chẽ.