Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua dự thảo Nghị quyết quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc- Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025.
Ngày 11/7, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến về quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc- Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025.
Tại phiên họp, Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Theo Tờ trình số 248, Dự án đang ở bước Báo cáo nghiên cứu khả thi, sau khi tính toán, chính xác lại số liệu so với Nghị quyết số 44 thì đất lâm nghiệp cần chuyển đổi là 1.863,94 ha, bao gồm: đất rừng phòng hộ 138,10 ha (tăng 28,10 ha tương đương 25,5%), đất rừng sản xuất 1.721,23 ha (tăng 285,23 ha tương đương 20%); diện tích đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên là 1.537,23 (tăng 5,23 ha).
Do đó, một số ý kiến đề nghị làm rõ hơn nguyên nhân sự chênh lệch số liệu về chiếm dụng diện tích rừng, đất rừng và đất lúa giữa bước chủ trương đầu tư đã được Quốc hội thông qua và Tờ trình số 248 về chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án.
Ủy ban Kinh tế nhận thấy, trong bước nghiên cứu tiền khả thi, hướng tuyến chủ yếu được xác định trên bản đồ địa hình tỷ lệ 1/50.000- 1/100.000, do đó số liệu được tính toán mang tính tương đối. Tại bước lập hồ sơ chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng, đất trồng lúa, việc xác định diện tích chiếm dụng, phân loại rừng, đất rừng, đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên được xác định trên nền bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ hiện trạng sử dụng đất với tỷ lệ 1/2.000, nên đã phân định khá chi tiết, chính xác hơn về các loại rừng (rừng tự nhiên và rừng trồng; rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản xuất), về đất rừng, đất trồng lúa và được cắm mốc tại thực địa, thống nhất với địa phương, các cơ quan liên quan, đây là nguyên nhân chính dẫn đến chênh lệch số liệu giữa Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và Báo cáo nghiên cứu khả thi.
Theo báo cáo giải trình bổ sung của Chính phủ, hướng tuyến của Dự án đã được lựa chọn phù hợp, vừa bảo đảm các tiêu chuẩn kỹ thuật của đường cao tốc, vừa hạn chế tối đa việc chiếm dụng rừng (đặc biệt là rừng tự nhiên, rừng phòng hộ), đất rừng, đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên và các địa phương có diện tích rừng, đất rừng, đất lúa cần chuyển đổi phục vụ Dự án đã thống nhất bằng văn bản về hướng tuyến. So với hướng tuyến bước nghiên cứu tiền khả thi, trong bước nghiên cứu khả thi, hướng tuyến đã điều chỉnh cục bộ tại một số vị trí nhằm nâng cao hiệu quả, bảo đảm kinh tế - kỹ thuật.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh này cơ bản không thay đổi nhiều về số liệu chiếm dụng rừng, đất rừng, đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án. Đồng thời, khu vực tuyến cao tốc đi qua chủ yếu là rừng trồng, rừng tự nhiên chỉ phân bố tại một số vị trí cục bộ, chiếm diện tích rất nhỏ (39,83 ha/1054,63 ha tổng diện tích rừng đề nghị thu hồi) và đây là khu vực bìa rừng nên chủ yếu là rừng tự nhiên có trữ lượng rừng ở mức nghèo kiệt.
Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị làm rõ tác động của việc thay đổi diện tích rừng, đất rừng, đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên đối với tổng mức đầu tư Dự án và phương án phát triển đất, trồng rừng, trồng lúa thay thế đối với phần diện tích cần chuyển đổi cho Dự án theo quy định pháp luật. Có ý kiến cho rằng diện tích đất trồng lúa hai vụ đề nghị chuyển mục đích sử dụng là 1.573,23 ha, theo đó tổng số tiền phải nộp để bảo vệ, phát triển đất trồng lúa của chủ đầu tư Dự án là khoảng 388 tỷ đồng, do vậy, đề nghị các cơ quan liên quan phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, trách nhiệm quản lý đối với diện tích đất trồng lúa hai vụ.
Có ý kiến đề nghị lưu ý không chuyển đổi đất rừng để lấy mỏ khai thác vật liệu cho Dự án. Một số ý kiến đề nghị trong các bước tiếp theo khi triển khai thực hiện cần chú ý đến vấn đề có liên quan đến an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, chống biến đổi khí hậu, bảo đảm sinh kế của người dân khi bị thu hồi đất rừng, đất lúa phục vụ Dự án.
Liên quan đến sự chênh lệch đất lúa và đất rừng so với thời điểm xin chủ trương đầu tư, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể cho biết, đất lúa nằm trên địa hình bằng phẳng do đó khi xin chủ trương đầu tư, chúng ta nhân bề rộng thu hồi đất và nhân chiều dài đó là diện tích tương đối chính xác. Còn 7 tỉnh có rừng có những vị trí là đồi núi, có những chỗ phải đắp sâu, đắp cao, có những chỗ đào. Chính vì địa hình phức tạp như thế nên tuyến không thay đổi nhưng diện tích thực tế có thay đổi.
Ông Thể cũng khẳng định, “việc chênh hiện nay không tăng kinh phí, 12 dự án này vẫn đảm bảo 146 nghìn tỷ đồng đã được Quốc hội thông qua và hồ sơ thì đã chuẩn bị đầy đủ”.
Giải trình thêm, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cũng cho biết, đã có đánh giá tác động môi trường trên từng dự án đi qua đồng thời đưa ra cơ chế tính toán phục hồi hệ sinh thái. “Thời gian tới sẽ giải bài toán khi nói đến đất bao gồm cả đất rừng. Những dự án được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư đối với đất trồng lúa thì không phải xét nữa. Tuy nhiên, đối với Luật Lâm nghiệp và Nghị định 56 hiện nay chưa được phân cấp. Cho nên Bộ sẽ giải bài toán khi nói đến đất có nghĩa là đất quyết định đến việc cần rừng hay không. Vì không phải không có rừng là không phải đất rừng, do đất rừng phụ thuộc chức năng sinh thái, phục hồi, bảo vệ. Nếu nói chỉ cần phá rừng là không có đất rừng là không đúng”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà phân trần.
Với 100% đại biểu tán thành, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua dự thảo Nghị quyết về việc quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025.
Theo dự thảo Nghị quyết này thì quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 gồm Diện tích rừng là 1.054,63 ha (bao gồm 111,84 ha rừng phòng hộ, 4,45 ha rừng đặc dụng, 802,91 ha rừng sản xuất, 135,43 ha rừng ngoài quy hoạch 3 loại rừng).
Diện tích đất lâm nghiệp là 1.863,94 ha (bao gồm đất rừng phòng hộ 138,10 ha, đất rừng đặc dụng 4,61 ha, đất rừng sản xuất 1.721,23 ha).
Diện tích đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên là 1.537,23 ha.