Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên từng có phản ánh với Tổng cục Thuế rằng quy định quản lý thuế đối với doanh nghiệp (DN) có giao dịch liên kết khiến khoảng 7.800 DN trong tỉnh “mắc cạn”. Câu chuyện này ra sao, và Tổng cục Thuế trả lời như thế nào?
Ngỡ ngàng với cách giải thích mới
Theo tìm hiểu, Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên được tiếp nhận thông tin: Công ty vay của ngân hàng thương mại với tỷ lệ trên 25% vốn chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn được xác định là các bên có quan hệ liên kết. Khi đó giao dịch phát sinh giữa hai bên là giao dịch liên kết”.
Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên cho rằng, tại Điểm d Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP quy định: “Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ 3 được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay”.
Do vậy theo Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên, quy định nêu tại Điểm d Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP không phải là quy định mới, bởi từ Nghị định số 20/2017/NĐ-CP đã có quy định này, và đến nay, quy định trên đã thực hiện liên tục được gần 5 năm, qua 3 kỳ quyết toán thuế thu nhập DN các năm 2017, 2018, 2019, chưa có DN nào và cũng chưa có cơ quan thuế nào xác định quan hệ cho vay giữa ngân hàng và DN là giao dịch liên kết.
Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên nói rằng thông tin mà DN tiếp cận được tại Hội nghị trực tuyến về Thuế ( diễn ra ngày 18/3) khiến cho DN “mắc cạn”.
Có thể sẽ phân loại theo ngành nghề
Theo trả lời của Tổng cục Thuế, Thông tư số 66/2010/TT-BTC có quy định: Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay.
Bên cạnh đó, Nghị định số 132/2020/NĐ-CP cũng quy định: Một DN bảo lãnh hoặc cho một DN khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ 3 được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của DN đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của DN đi vay.
Theo những quy định này, đây không phải là quy định mới gây khó khăn cho các DN khi xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay như Hiệp hội DN tỉnh Thái Nguyên đã đề cập.
Khi xác định 2 DN có mối quan hệ liên kết thì giao dịch phát sinh giữa 2 DN này là giao dịch liên kết và phải thực hiện kê khai xác định giá giao dịch liên kết theo quy định.
Đồng thời, nếu DN có giao dịch liên kết chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế sẽ áp dụng theo quy định tại Khoản 3 Điều 8 Nghị định 20/2017/NĐ-CP (được sửa đổi bổ sung tại Nghị định số 68/2020/NĐ-CP) và khoản 3 Điều 16 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP.
Tuy nhiên, do nhiều DN Việt Nam chủ yếu hoạt động bằng việc vay vốn ngân hàng với mức vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nên nhiều DN được xác định có mối quan hệ liên kết với DN là các ngân hàng khi vay vượt 25% vốn góp của chủ sở hữu và chiếm trên 50% tổng các khoản nợ trung và dài hạn.
Qua thực tế triển khai nhiệm vụ, Tổng cục Thuế nhận được một số văn bản hỏi của các Cục Thuế về việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay trong đó có xác định mối quan hệ liên kết vay giữa DN với ngân hàng với mức vốn vay trên 25% vốn chủ sở hữu.
Trong đó, giao dịch xác định chi phí lãi vay với ngân hàng theo nguyên tắc giao dịch độc lập không phải là vướng mắc của DN mà vấn đề là ở việc khi xác định có quan hệ liên kết theo vốn vay với ngân hàng, DN và ngân hàng phát sinh giao dịch sẽ được xác định là giao dịch liên kết, chi phí lãi vay được trừ của DN sẽ áp dụng khống chế theo quy định của Nghị định.
Tổng cục Thuế thấy rằng, việc xác định mối quan hệ liên kết theo vốn vay với đặc thù của DN Việt Nam sẽ phải nghiên cứu (có thể nâng mức cao hơn - không giữ ở 25% như hiện tại) để phù hợp hơn với đặc thù của DN Việt Nam hoạt động chủ yếu bằng vốn vay.
Cũng theo quan điểm của cơ quan Thuế để tạo thuận lợi hơn cho các DN nhỏ phát triển, Tổng cục Thuế sẽ nghiên cứu các ý kiến để cân nhắc điều chỉnh. Trong đó, có tính đến thực tế tình hình nhiều DN Việt Nam chủ yếu “sống nhờ” qua việc vay vốn ngân hàng với mức vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu.
Tổng cục Thuế đang nghiên cứu các ý kiến đóng góp của giới chuyên gia, trong đó có chuyên gia của Dự án RARS (Dự án Hỗ trợ hiện đại hoá hệ thống thuế) là đặc thù ở Việt Nam các DN thường vay nhiều, “mức thị trường” không phải là vay gấp 3 đến 4 lần vốn chủ sở hữu mà có thể tới 7 đến 8 lần. Cơ quan thuế sẽ có sự phân loại theo ngành nghề, có DN được áp dụng tỷ lệ vay lớn hơn, chứ không áp dụng cho tất cả các DN Việt Nam.