Tìm cách hút đầu tư vào hạ tầng cấp, thoát nước
Ở thời điểm hiện tại nhu cầu đầu tư hệ thống thoát nước và xử lý nước thải của Việt Nam rất lớn, đòi hỏi đa dạng hóa nguồn vốn bằng cách huy động đầu tư tư nhân, chuyển từ phí bảo vệ môi trường sang thu giá dịch vụ.
Thoát nước không theo kịp tác động biến đổi khí hậu
Theo ông Trần Hoài Anh - Phó Cục trưởng Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng (Bộ Xây dựng), hiện hệ thống thoát nước các khu dân cư đô thị lớn, các lưu vực sông chủ yếu là hệ thống thoát nước chung. Nước thải sinh hoạt cùng với nước mưa vẫn còn xả trực tiếp ra các cống, kênh, rạch vào các sông chính của lưu vực. Tỷ lệ thu gom nước thải của phạm vi phục vụ hệ thống thoát nước đô thị toàn quốc đạt khoảng 70%. Bình quân lượng nước thải sinh hoạt đô thị được xử lý chỉ đạt 18% trên tổng lượng nước thải cần được thu gom xử lý. Ở thời điểm hiện tại, toàn quốc có 83 nhà máy xử lý nước thải tập trung tại các đô thị, với tổng công suất thiết kế khoảng 2,06 triệu m³/ngày, công suất thực tế khoảng 1,1 triệu m³/ngày.
Trong khi đó theo nhận định của giới chuyên gia, do đầu tư không đồng bộ giữa mạng lưới thu gom nước thải và nhà máy xử lý nước thải nên không khai thác hết công suất thiết kế nhà máy, giảm hiệu quả đầu tư công trình. Nguồn vốn đầu tư cho thoát nước và xử lý nước thải chủ yếu từ nguồn ODA, chưa tương xứng với nhu cầu thực tế do vốn đầu tư rất lớn. Giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải thấp chưa tạo động lực cho huy động tư nhân đầu tư. Nhiều hệ thống thoát nước mặt tại các đô thị bị vượt tải, khả năng thoát nước không theo kịp thực tiễn của tác động biến đổi khí hậu và hiện tượng thời tiết cực đoan. Dẫn báo cáo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, các chuyên gia kinh tế cho biết, ô nhiễm nguồn nước có thể làm giảm tới 5,8% GDP hàng năm của Việt Nam, trong khi việc xử lý toàn bộ nước thải có thể giúp tăng GDP thêm 2,3%.
Ths Lương Ngọc Khánh - Phó trưởng phòng Quản lý cấp, thoát nước của Cục Kết cấu hạ tầng xây dựng cho biết, Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực thoát nước và xử lý nước thải như Luật Quy hoạch, Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước… cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai còn bất cập, đặc biệt là thu hút đầu tư và đảm bảo hiệu quả vận hành hệ thống thoát nước đô thị. Theo ông Khánh, đến nay, cả nước có 23 đồ án quy hoạch chuyên ngành thoát nước đô thị được phê duyệt và 52/63 tỉnh, thành phố ban hành quyết định quản lý hoạt động thoát nước trước khi sáp nhập.
8,3 tỷ USD cho đầu tư xử lý nước thải
Theo đại diện của Ngân hàng Thế giới (WB), ước tính nhu cầu đầu tư cho hệ thống thoát nước đô thị Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 lên tới 8,3 tỷ USD, đòi hỏi đa dạng hóa nguồn vốn bằng cách huy động đầu tư tư nhân, kêu gọi các nguồn vốn hợp pháp khác và chuyển từ phí bảo vệ môi trường sang thu giá dịch vụ thoát nước và xử lý nước thải. Một số địa phương như Hà Nội, TPHCM, TP Đà Nẵng, Bắc Ninh bước đầu áp dụng hình thức đối tác công tư (PPP) để huy động nguồn lực xã hội. Nhưng đến nay, mới có 5 dự án PPP được triển khai theo hình thức hợp đồng BT. Hiện hình thức đấu thầu được đánh giá minh bạch nhưng gặp khó do tổng mức đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và giá dịch vụ thấp, làm giảm tính khả thi cho nhà đầu tư.
Chia sẻ ở góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Quang Quỳnh - Chủ tịch Công ty TNHH MTV thoát nước Hải Phòng cho biết, quá trình vận hành hệ thống thoát nước và xử lý nước thải gặp nhiều khó khăn, từ biến đổi khí hậu đến thực hiện nội dung điều khoản hợp đồng... Ông Quỳnh đề xuất sớm ban hành Luật Cấp, thoát nước để tạo khung pháp lý thống nhất cho quản lý, đầu tư và vận hành hạ tầng thoát nước, xử lý nước thải. Đồng thời, hoàn thiện các quy định liên quan giá dịch vụ, phân cấp quản lý, xử lý bùn thải; chuẩn hóa hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp điều kiện biến đổi khí hậu.
Trong khi đó, theo nhận định của giới chuyên gia thì quá trình đô thị hóa nhanh đang đặt Việt Nam trước thách thức lớn về thoát nước và xử lý nước thải. Trong bối cảnh ngân sách hạn hẹp, mô hình đối tác PPP là giải pháp cần thiết để huy động nguồn lực tư nhân. Các mô hình nhà nước thanh toán như BLT (xây dựng - thuê - chuyển giao) và BTL (xây dựng - chuyển giao - thuê) cũng được đánh giá khả thi, vừa bảo đảm sở hữu công, vừa khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vận hành, nâng cao hiệu quả.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, những nước có khả năng thu hồi vốn thấp qua giá dịch vụ như Ấn Độ, Indonesia đã thành công với mô hình Nhà nước thanh toán. Việt Nam được khuyến nghị đi theo hướng này, kết hợp cơ chế tài chính hỗn hợp gồm vốn ngân sách, vay ưu đãi, nợ thương mại và vốn chủ sở hữu tư nhân. Đồng thời, các công cụ như hỗ trợ bù đắp thiếu hụt, trái phiếu xanh, tín chỉ carbon hay thu hồi giá trị đất được xem là chìa khóa để giảm rủi ro và tăng sức hấp dẫn cho nhà đầu tư.