Hành lang pháp lý đang là trở ngại trong việc tiếp cận dòng vốn xanh của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, nếu có khung quản lý được tiêu chuẩn hóa, các ngân hàng sẽ dễ dàng hơn trong việc cho vay các dự án xanh. Dòng vốn xanh sẽ mang lại lợi ích môi trường, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tuy nhiên đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn vì thế cần được ưu đãi.
Thông tin từ Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước (NHNN), giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Đến 30/6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt gần 528,3 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh, NHNN hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 45%) và nông nghiệp xanh (31%).
Chú trọng phát triển tín dụng xanh
Thống kê cũng cho biết hiện nay số lượng các TCTD ở Việt Nam tham gia hoạt động cấp tín dụng xanh năm 2023 là 43 đơn vị. Các ngân hàng cũng rất quan tâm đến phát triển tín dụng xanh.
Bà Nguyễn Thị Thu Hà - Trưởng ban Định chế tài chính Agribank cho biết, Agribank có tới gần 70% dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nên việc phát triển tín dụng xanh rất quan trọng. Theo bà Hà, Agribank đang triển khai hiệu quả 7 chương trình tín dụng chính sách và cho vay theo 2 chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Trong đó luôn ưu tiên cấp tín dụng cho các dự án xanh - một trong những mắt xích quan trọng của chuỗi liên kết phát triển bền vững và hỗ trợ giảm phát thải.
Còn ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án Ngân hàng BIDV cho biết, kể từ năm 2018, BIDV đã hạn chế cấp tín dụng đối với các lĩnh vực ảnh hưởng đến môi trường như các dự án năng lượng hóa thạch, dự án thủy điện lớn, dự án gây phát thải nhà kính. Theo lộ trình đến năm 2035, BIDV sẽ không còn dư nợ cho vay các dự án nhiệt điện, điện than.
Dù các ngân hàng đẩy mạnh tín dụng xanh nhưng tổng dư nợ tín dụng xanh hiện nay chiếm 4,2 - 4,6% trong tổng dư nợ nền kinh tế, còn cách khá xa mục tiêu 10% được đặt ra vào năm 2025.
Ngân hàng vẫn khó cho vay
Tại cuộc tọa đàm về xanh hóa ngành ngân hàng diễn ra vào tháng 9 vừa qua, bà Võ Hằng Phương - Giám đốc khối Thị trường tài chính và ngân hàng giao dịch VPBank cho biết, để khuyến khích khách hàng chuyển đổi sang dự án xanh, VPBank đang áp dụng mức lãi suất thấp hơn 1,5% so với dự án thông thường. Tuy nhiên, giữa khách hàng và ngân hàng đang có một khoảng cách khi Việt Nam chưa có quy chuẩn để xác định dự án xanh, trong khi VPBank đang áp dụng quy tắc xanh của tổ chức quốc tế. Đây cũng là khó khăn mà ngân hàng đang gặp phải trong việc cấp tín dụng cho các dự án xanh.
Theo bà Phương, nếu Chính phủ có khung pháp lý rõ ràng về khí thải, hiệu ứng nhà kính, hay tiêu chuẩn thế nào là xanh thì sẽ tạo ra chế tài mạnh mẽ hơn để ngân hàng khuyến khích khách hàng chuyển sang các dự án xanh. Bà Phương lấy ví dụ, để bán cà phê cho Starbucks, nhà cung ứng bắt buộc phải có chứng chỉ Rainforest.
Trong khi đó theo nhìn nhận của một số chuyên gia, hầu hết DN đang khá dè dặt trong việc tiếp cận kinh tế xanh do gánh nặng về chi phí hay tốn kém thời gian. Bên cạnh đó, phần lớn DN Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, dẫn đến sự hạn chế về năng lực tài chính, công nghệ để tổ chức sản xuất theo mô hình kinh tế xanh.
Ông Nguyễn Ngọc Hòa - Chủ tịch Hiệp hội DN TPHCM (HUBA) cho biết, hiện nay nhiều DN rất nóng ruột với việc triển khai tài chính xanh. Bởi giờ không “xanh” thì DN không xuất hàng đi đâu được. DN mong được hướng dẫn, sớm có định chế để DN sớm thực hiện. Vì để chuyển đổi xanh, DN rất cần các chương trình tín dụng xanh nhưng khó tiếp cận do chưa có khung pháp lý đầy đủ. Còn để tự thân mỗi DN đứng ra phát hành trái phiếu xanh để huy động vốn là điều rất khó. Vì hiện nay, phần lớn DN của TPHCM là nhỏ và vừa.
Còn ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết, ngành dệt may bắt buộc phải chuyển đổi xanh để tồn tại và phát triển, áp lực đánh giá của nhãn hàng về thị trường xanh bền vững, khí thải, rác thải, môi trường làm việc đang rất khắt khe. DN muốn xuất khẩu phải đáp ứng các chứng chỉ an toàn cho sản phẩm khi thâm nhập vào các thị trường khó tính như châu Âu hay Mỹ, nhưng hiện rất ít DN đầu tư hệ thống sản xuất xanh. Đại diện cộng đồng DN dệt may mong cơ quan quản lý hướng dẫn linh hoạt cho DN và từng địa phương để đảm bảo khả năng tài chính và nội lực để thực hiện. Cùng với đó, tạo điều kiện về chính sách vốn để DN dệt may đầu tư máy móc, công nghệ theo xu hướng xanh, bền vững.
Chưa kể một điểm nghẽn nữa khó đẩy được tín dụng xanh tăng theo nhìn nhận của chuyên gia, các dự án đầu tư xanh cần thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao. Do vậy các TCTD khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn để cho vay trong khi đó lại thiếu cơ chế, chính sách trong việc hỗ trợ các TCTD được tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, ưu đãi, nhất là huy động nguồn lực quốc tế để có điều kiện cung cấp các khoản tín dụng với thời hạn dài và lãi suất ưu đãi cho các ngành/lĩnh vực xanh.
Sớm hoàn thiện khung pháp lý
Ông Nguyễn Quốc Hưng - Giám đốc Ban Tài trợ dự án Ngân hàng BIDV kiến nghị các cơ quan quản lý sớm hoàn thiện khung pháp lý, chính sách tổng thể liên quan đến triển khai tài chính bền vững nói chung và tín dụng xanh nói riêng, định hướng phát triển từng ngành hướng đến mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Trước mắt, sớm ban hành Tiêu chí phân loại dự án xanh, hướng dẫn công bố thông tin tài chính khí hậu theo chuẩn quốc tế; đưa ra các quy định, hướng dẫn cụ thể, định hướng ngân hàng thương mại tiếp cận nguồn vốn ưu đãi cho tín dụng xanh.
"Các cơ chế, khuyến khích của Chính phủ, NHNN khi triển khai cấp tín dụng xanh hiện đang dừng ở mức khuyến khích chung. Chưa có cơ chế ghi nhận trong quá trình đánh giá, xếp hạng đối với TCTD có thành tích tốt trong hoạt động cấp tín dụng xanh, cũng như chưa có cơ chế hỗ trợ nguồn vốn/kênh tiếp cận nguồn vốn thực sự hiệu quả để các TCTD đẩy mạnh tín dụng xanh. Nguồn vốn đầu tư vào các ngành, lĩnh vực mang lại lợi ích môi trường, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng tại Việt Nam thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay" - đại diện BIDV góp ý.
Còn theo ông Nguyễn Xuân Bắc - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lý, từ đó sớm ban hành Danh mục phân loại xanh làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.
“Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh. Sớm hoàn thiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, trong đó làm rõ vai trò tham gia của các định chế tài chính, các TCTD trong triển khai, thực hiện” - ông Bắc đề nghị.
Theo TS Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song, sự phát triển của lĩnh vực này ở Việt Nam chưa được khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng Việt Nam còn nhiều khó khăn, thách thức như: Cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan đến các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Khá nhiều ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng một số khác lại chậm chân. Có ngân hàng chưa xây dựng được quy định nội bộ về quản lý rủi ro môi trường và xã hội, chưa có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lý rủi ro với mảng này…