Sự kiện “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” vừa được UNESCO vinh danh không chỉ là niềm tự hào, mà còn đặt ra yêu cầu nhận diện đúng về giá trị văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu trong cộng đồng. Bởi tín ngưỡng thờ Mẫu được người Việt biết đến qua khái niệm hầu đồng đang nở rộ trong đời sống tâm linh lẫn trên sân khấu, với nhiều biểu hiện sai lệch về di sản.
Đó là những trao đổi, đánh giá của các chuyên gia văn hóa tại buổi tọa đàm “Tín ngưỡng thờ Mẫu từ góc nhìn di sản văn hóa”, do Trung tâm Xúc tiến Quảng bá Di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam phối hợp với BQL di tích Phủ Tây Hồ (Hà Nội) vừa tổ chức.
“Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” đang tạo nên nhiều nỗi lo sau khi được vinh danh. (Ảnh: Ngọc Thành).
Hiểu đúng về di sản
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được công nhận là do cộng đồng thực hành di sản (cung văn, tín đồ, thanh đồng, đạo quan, thủ nhang đồng đền…), những người trực tiếp thực hành và trao truyền di sản hàng nhiều trăm năm nay.
Bản thân tín ngưỡng thờ Mẫu có giá trị nhân văn sâu sắc bởi nó gắn liền với đời sống tinh thần và các phong tục, tập quán của người Việt.
Nhưng theo nhận định của nhiều chuyên gia di sản phi vật thể thì thực hành nghi lễ lên đồng trong thời kỳ kinh tế thị trường bùng phát và có chiều hướng khó kiểm soát, khiến cho một số cá nhân lợi dụng, trục lợi và làm sai lệch giá trị văn hóa, xã hội. Trong thời gian qua, các cơ quan quản lý văn hóa từ trung ương đến địa phương có những trở ngại trong việc quản lý lên đồng.
Ông Phạm Sanh Châu- Tổng thư ký Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam thừa nhận: “Tôi cũng hết sức lo ngại trước sự biến tướng “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” sau khi được vinh danh di sản. Nhiều người sẽ lạm dụng điều này để mở Phủ, lên đồng và coi việc được UNESCO vinh danh di sản để “bảo hiểm” cho việc này”.
Ông Châu cũng lo ngại từ những hệ lụy này sẽ xảy ra việc không phân biệt được đâu những giá trị thật và giả của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ.
Do đó, “sức nặng” rất lớn đang đặt lên vai của Bộ VHTT&DL và tất cả các cấp. Đặc biệt là các cấp địa phương, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta cần phải có nhiều cuộc thảo luận để các nhà quản lý văn hóa hiểu rõ và hiểu đúng về “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ”.
Đặc biệt, quan trọng hơn là việc giáo dục cho cộng đồng trong việc thực hành tín ngưỡng. Ông Châu cũng ví von đây một tấm huân chương có mặt đẹp bóng bẩy và cả mặt xấu xí.
Do đó hậu vinh danh đang đưa ra những thách thức đang hiện hữu và nếu không kiểm soát tốt sẽ bị phản tác dụng. “Chúng ta vinh danh một di sản để rồi không được thực hành tốt thì sẽ làm xấu đi hình ảnh của Việt Nam. Như mới đây việc đưa biểu diễn “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” tại các buổi khai mạc Hội thảo, hội nghị tôi đã góp ý là không phù hợp.
Chúng ta cần phải cảnh giác cao độ. Bởi song hành với sự tự hào là những nguy cơ bị bóp méo, thực hành sai là rất lớn” - ông Châu cho hay.
Còn theo PGS TS Nguyễn Thị Hiền - Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, “áp lực” đang không chỉ về phía nhà quản lý mà ở ngay trong chính cộng đồng và cần có sự phối hợp chặt chẽ.
Ở đó, các tổ chức, đơn vị như Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, Trung tâm Xúc tiến quảng bá di sản văn hóa phi vật thể, Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam và các tổ chức, cơ quan khác cùng với các Sở VHTT&DL tiếp tục triển khai các hoạt động của các câu lạc bộ văn hóa thờ Mẫu, chầu văn như liên hoan hát văn, tổ chức giao lưu lên đồng giữa các đền các phủ, và với các hình thức shaman giáo khác của các dân tộc ở Việt Nam và các nước.
Khuyến khích những nghệ nhân hát văn cao tuổi truyền dạy những bài hát, điệu hát văn cổ cho thế hệ trẻ. Những người cao tuổi, hiểu biết ở địa phương cùng với các nhà nghiên cứu trung ương tìm hiểu, nghiên cứu và phục hồi một số nghi lễ dân gian vốn có trong lễ hội Phủ Dầy như tục rước nước tại đền Giếng để làm lễ mộc dục; phục hồi đường rước thỉnh kinh ở Phủ Dầy lên các chùa trong khu vực.
Các thủ nhang, thanh đồng, cung văn phối hợp với các Sở VHTT&DL, các đơn vị, công ty du lịch, kết nối với các phủ, các điện thờ giới thiệu cho khách thăm quan, khách hành hương về giá trị và bản sắc văn hóa Việt trong diễn xướng lên đồng, hát văn, lễ hội dân gian…
Đặc biệt, PGS TS Nguyễn Thị Hiền góp ý: “Cộng đồng góp phần tích cực không chỉ trong truyền dạy, trong việc đảm bảo những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc, mà còn góp phần giảm thiểu những tác động tiêu cực và những hành động trục lợi, buôn thần bán thánh”.
Đừng bỏ quên hát văn
Không chỉ nỗi lo trong biến tướng của “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” hậu vinh danh mà việc bảo tồn một trong những “hồn cốt” của tín ngưỡng là hát văn cũng đang đặt ra nhiều băn khoăn.
Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Hồ Thị Hồng Dung - Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam: “Dòng chảy thời gian quả là khắc nghiệt, sau một thời gian bị kìm nén từ những năm 50 tới những năm 80 của thế kỷ XX, khi được phục hồi, âm nhạc hát văn của tín ngưỡng Tứ phủ đã có những thay đổi mạnh mẽ. Sự tác động của kinh tế và đời sống xã hội, nhạc pop và nhạc phương Tây đã làm thay đổi thẩm mỹ âm nhạc của cung văn cũng như con nhang đệ tử”.
Bà Dung cho rằng: Cung văn hiện nay phần lớn chỉ học đàn và hát, thậm chí qua băng cassette mà không được đào tạo theo lối truyền thống biết khoa cúng, ngạch sớ, chữ Hán-Nôm và ít người hát được trọn vẹn một bản văn thờ.
Chất lượng cung văn hiện nay cũng là một vấn đề mà một số cung văn lão thành có ý kiến. Ngoài ra, từ những năm 1990, hầu hết các dàn nhạc hát văn đều sử dụng loa, amply, micro.
Âm thanh được khuếch đại và nhờ vậy người cung văn không phải hát to, không tốn hơi. Tuy nhiên, những thiết bị kém chất lượng này lại đôi khi làm méo mó âm thanh.
Sinh thời, nghệ nhân Lê Bá Cao từng nhận xét về dàn nhạc hiện nay: “Ồn ào mà không tôn kính; bị lệ thuộc vào tăng âm, nếu mất điện, rời tăng âm ra là không hát được”.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Hồ Thị Hồng Dung đề xuất: “Để quảng bá di sản hát văn tới công chúng cũng như bạn bè quốc tế nên hướng tới những bài bản, làn điệu, tiết tấu, dàn nhạc cổ truyền của hát văn.
Theo kinh nghiệm của các nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, những hình thức nghệ thuật cổ của họ được giới thiệu một cách nguyên bản, càng cổ thì càng được trân trọng. Làm thế nào để gìn giữ được bản sắc của hát văn mà không bị hoà trộn với các hình thức ca hát nghệ thuật dân tộc khác”.