Đây là đánh giá của các đại biểu tại hội thảo lần thứ nhất xây dựng kế hoạch hành động quốc gia phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em do Bộ LĐTBXH cùng Unicef tổ chức tại Hà Nội ngày 18/4.
Chia sẻ về thực trạng trẻ em bị bạo lực, xâm hại tình dục, bà Nguyễn Thị Nga - Phó Cục trưởng Cục Trẻ em, Bộ LĐTBXH cho biết, thống kê của Bộ LĐTBXH cho thấy, trung bình mỗi năm cả nước phát hiện khoảng 2.000 trường hợp trẻ em bị bạo lực, xâm hại.
Còn theo báo cáo của Bộ Công an, năm 2018 cả nước xảy ra 1.547 vụ xâm hại trẻ em, với gần 1.700 đối tượng, xâm hại 1.579 trẻ, trong đó có 1.293 em bị xâm hại tình dục. Một số vụ việc bạo lực học đường nghiêm trọng tại một số địa phương như: Nữ sinh bị lột đồ đánh hội đồng quay clip tung lên mạng tại Hưng Yên; cô giáo ở Bà Rịa - Vũng Tàu đánh 22 học sinh vì mất trật tự... Các vụ việc đã làm ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần học sinh, môi trường giáo dục và gây lo lắng, bức xúc trong xã hội.
“Trong số các ca can thiệp, hỗ trợ trẻ em bị xâm hại tình dục thông qua Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em (số 111) năm 2017 và năm 2018, có tới 59,06% trẻ em bị người quen, hàng xóm xâm hại tình dục; 21,12% bị xâm hại bởi người thân trong gia đình (bố đẻ, bố dượng, anh, em họ...); giáo viên, nhân viên nhà trường là 6,03%, và các đối tượng khác là 13,79%” - bà Nga chỉ ra.
Bà Nga cho rằng nguyên nhân là do xã hội thay đổi nhanh, bất bình đẳng giới, bất bình đẳng kinh tế, tình trạng nghèo khó, các quan niệm, văn hóa ủng hộ bạo lực/xâm hại (vợ không tố cáo chồng xâm hại tình dục con đẻ/con riêng)...
Đánh giá về công tác bảo vệ trẻ em, Thứ trưởng Bộ LĐTBXH Nguyễn Thị Hà cũng thừa nhận quy định pháp luật, chính sách cụ thể liên quan đến bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em vẫn đang trong quá trình rà soát, nghiên cứu, kiến nghị hoàn thiện. Ví dụ, quy định và hướng dẫn về việc xác định các dấu hiệu cụ thể để định tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi còn chưa cụ thể, rõ ràng; các quy định pháp lý về một quy trình tố tụng thân thiện, có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan tư pháp với các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em, bắt đầu từ giám định pháp y cho đến xét xử, phục hồi, hòa nhập đối với trẻ em tham gia quá trình tư pháp chưa cụ thể, chậm được sửa đổi, bổ sung...
Mặt khác, chính quyền, cơ quan chuyên môn và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội, đặc biệt ở cấp địa phương, cơ sở chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc và quan tâm đúng mức về công tác bảo vệ trẻ em; thực hiện chưa đầy đủ quy định của pháp luật, chính sách về bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.
Ngoài ra công tác giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình, nhà trường chưa được quan tâm đúng mức; các thành viên trong gia đình, giáo viên, học sinh chưa biết rõ các kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em, phòng, chống bạo lực gia đình, học đường; trách nhiệm phát hiện thông báo, tố giác hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em thực hiện chưa đầy đủ.
Bạo lực, xâm hại trẻ em là vấn nạn toàn cầu, có xu hướng gia tăng. Do đó theo bà Lesley Miller - Phó trưởng Đại diện Unicef tại Việt Nam, đây là thời điểm quan trọng đối với Việt Nam để tạo ra kế hoạch, tác động tích cực đến công tác bảo vệ trẻ em. Bạo lực, xâm hại gây tác động xấu đến trẻ em, đặc biệt là sức khỏe tâm thần, kết quả học hành của trẻ cũng bị ảnh hưởng nặng nề…
Hậu quả của tình trạng này ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế (chiếm 2% GDP). Chúng ta phải chấm dứt hành vi bạo lực, xâm hại tình dục trẻ em dưới mọi hình thức vào năm 2020. Nếu không giải quyết triệt để thì hậu quả sẽ còn nghiêm trọng hơn. Để xây dựng kế hoạch hành động quốc gia trước tiên phải tăng cường khuôn khổ pháp lý, sửa Luật Trẻ em để mọi trẻ em dưới 18 tuổi đều được bảo vệ trước mọi hành vi bạo lực, xâm hại. Bên cạnh đó là tăng cường hệ thống an sinh xã hội, có chương trình đào tạo cho cán bộ làm công tác xã hội.