Những ai đã được gặp, làm việc, nghe cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nói chuyện, thuyết trình hoặc giảng bài, đều có chung nhận thức đó là nhà lãnh đạo lỗi lạc, một trí tuệ lớn, với một phương pháp tư duy khoa học, năng động, không dừng lại ở những kết luận có sẵn.
Tìm tòi, khám phá, sẵn sàng đặt ra những vấn đề để tranh luận cũng là nét nổi bật trong phong cách làm việc và lãnh đạo của ông.
Tổng Bí thư Lê Duẩn.
Có được điều đó là bởi ông được tôi luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng lâu dài, nhiều thời gian hoạt động độc lập, khao khát vươn tới tri thức, trí tuệ cao để có thể giải quyết được những vấn đề do thực tiễn cách mạng đề ra. Cũng vì thế ông luôn luôn quý trọng, đề cao vai trò của trí tuệ, vai trò của những người trí thức.
Là nhà lãnh đạo hoạt động tận tụy trong các phong trào cách mạng trước trong và sau Cách mạng Tháng Tám; rồi sau này, với cương vị của mình, ông có vai trò to lớn trong hoạch định đường lối và lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc từ Đại hội III (9/1960) và trên cả nước từ Đại hội IV (12/1976) với trách nhiệm Tổng Bí thư.
Trong lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu nước và cách mạng xã hội chủ nghĩa, ông đã giải quyết thành công nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn của cách mạng Việt Nam, trong đó có chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy vai trò của lực lượng trí thức qua nhiều thời kỳ lịch sử.
Đặc biệt, trong quãng đời hoạt động của mình, từ năm 1946 đến năm 1954, ông từng là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, rồi Bí thư Trung ương Cục miền Nam đã cùng tổ chức Đảng lãnh đạo kháng chiến toàn dân, toàn diện ở Nam Bộ, trong đó có phong trào đô thị và công tác trong phong trào học sinh, sinh viên và trí thức.
Những trí thức Nam Bộ từ tổ chức Thanh niên tiền phong như Thái Văn Lung, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thư… hăng hái tham gia kháng chiến.
Tháng 4/1947, trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn, đại biểu là luật sư Vương Quang Nhường, luật sư Trịnh Đình Thảo ra tuyên ngôn ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng ngừng bắn và thương lượng với Pháp.
Bản Tuyên ngôn có 400 chữ ký trong đó có Lưu Văn Lang, Nguyễn Văn Hưởng… Ngày 15/5/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn tới giới văn hóa và trí thức Nam Bộ.
Tháng 5/1947, giới trí thức Sài Gòn do luật sư Nguyễn Hữu Thọ đứng đầu ra tuyên bố ủng hộ Chính phủ kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với sự lãnh đạo của Xứ ủy Nam Bộ do Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn đứng đầu lực lượng kháng chiến phát triển, chính quyền cách mạng được củng cố. Năm 1947 thành lập Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ.
Trong Ủy ban có nhiều trí thức tham gia các cương vị lãnh đạo: Kha Vạng Cân, Nguyễn Thành Vĩnh, Diệp Ba, Nguyễn Văn Chì, Huỳnh Tấn Phát, Huỳnh Văn Tiểng, Nguyễn Ngọc Nhựt, Ngô Tấn Nhơn, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Thiện Lộc,…
Từ thực tiễn kháng chiến ở Nam Bộ, cả phong trào nông thôn và đô thị, ngày 5/7/1950, ông đã góp ý kiến vào Dự án của Trung ương về xây dựng, phát triển Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Có thể thấy rõ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Xứ ủy Nam Bộ và Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn đã có nhiều thành công trong lãnh đạo kháng chiến toàn dân, toàn diện, thực hiện đại đoàn kết toàn dân phát huy vai trò của giai cấp công nhân, nông dân và lực lượng trí thức. Trí thức Nam Bộ đã có vai trò rất quan trọng trong kháng chiến cứu nước.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam âm mưu chia cắt lâu dài nước Việt Nam và đàn áp tàn bạo những người yêu nước, kháng chiến với chính sách chống cộng điên cuồng.
Là người lãnh đạo cao nhất của Xứ ủy Nam Bộ, tháng 8-1956, ông viết đề cương Đường lối cách mạng miền Nam, trong đó nhấn mạnh đoàn kết dân tộc, xây dựng Mặt trận, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân.
“Phải đẩy mạnh lòng yêu nước chân chính trong các tầng lớp tiểu tư sản, học sinh, sinh viên, trí thức”, “tranh thủ những nhân vật có tên tuổi, những thân sĩ yêu nước vào Mặt trận”.
Đó là quan điểm rất cơ bản để sau đó, Nghị quyết Trung ương 15 (1959) và Nghị quyết Đại hội III của Đảng (9/1960) quyết định đường lối cách mạng miền Nam, thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960) với vai trò rất quan trọng của những trí thức tiêu biểu đứng đầu là luật sư Nguyễn Hữu Thọ.
Nhiều nhân sĩ, trí thức đã rời thành phố vào khu căn cứ cách mạng như: bác sĩ Phùng Văn Cung, giáo sư Nguyễn Ngọc Thương, nhà soạn kịch Trần Hữu Trang,…
Trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội III của Đảng (9/1960) ông nêu rõ cuộc đấu tranh diễn ra ở miền Nam: “Giới trí thức và thanh niên học sinh đã đấu tranh chống văn hóa suy đồi của Mỹ, đòi dạy tiếng Việt ở các trường đại học, đòi bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc”.
Lực lượng trí thức tới vùng giải phóng miền Nam tham gia kháng chiến, lãnh đạo Mặt trận và các tổ chức thành viên ngày càng đông đảo: Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Văn Huấn, Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Đặng Văn Ngữ, Dương Quỳnh Hoa (con gái giáo sư Dương Minh Thới), nhạc sĩ Hoàng Việt, nhà thơ Lê Anh Xuân (Ca Lê Hiến) và nhiều người khác.
Nhiều người đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1968, luật sư Trịnh Đình Thảo thành lập Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam.
Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tại Đại hội III của Đảng (9-1960), ông cũng nhấn mạnh chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí thức: “Cải tạo và bồi dưỡng trí thức cũ, đào tạo trí thức mới là một công tác rất quan trọng của Đảng và của Nhà nước trong cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Với chính sách đúng đắn trọng dụng trí thức, những người trí thức yêu nước đã tham gia cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến, tiếp tục phát huy vai trò tích cực trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Cống hiến to lớn của các nhà trí thức trong bộ máy nhà nước và phát triển khoa học, kỹ thuật được khẳng định như Phan Kế Toại, Phan Anh, Hoàng Minh Giám, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Vũ Đình Tụng, Lê Đình Thám, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh, Đặng Văn Chung, Tạ Quang Bửu,…
Những trí thức từ nước ngoài trở về tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp phát triển đất nước: Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước, Lương Định Của, Đặng Văn Ngữ, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Lê Văn Thiêm,…
Những nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ lớn đóng góp cho sự phát triển văn hóa: Nguyễn Đình Thi, Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Cao Xuân Huy, Đỗ Nhuận, Văn Cao, Hoài Thanh,…
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã đào tạo hàng vạn trí thức xã hội chủ nghĩa xuất thân từ công nhân, nông dân, nhân dân lao động.
Đồng chí Lê Duẩn nêu rõ: “Anh chị em trí thức xã hội chủ nghĩa đã có nhiều cống hiến trong sự nghiệp chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, hãy đem hết tài năng góp phần giải quyết tốt những vấn đề khoa học, kỹ thuật do thực tiễn đề ra, phấn đấu đưa trình độ khoa học, kỹ thuật của nước ta tiến lên nhanh chóng”.
Trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và trên cả nước sau ngày đất nước thống nhất (30/4/1975), nhà cách mạng Lê Duẩn nhấn mạnh cách mạng về tư tưởng, văn hóa, coi cách mạng khoa học-kỹ thuật là then chốt để công nghiệp hóa đất nước.
Vì vậy, phải coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức, ra sức đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách trọng dụng trí thức. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IV của Đảng (12/1976), Tổng Bí thư Lê Duẩn nhấn mạnh:
“Trí thức giữ vai trò ngày càng quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa và khoa học và kỹ thuật. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chẳng những phải củng cố khối liên minh công nông mà còn phải đoàn kết công nông với trí thức, trong đó tuyệt đại bộ phận xuất thân từ công nông, là con em công nông được chế độ mới đào tạo thành trí thức”.
Quan điểm đó của Tổng Bí thư Lê Duẩn phản ánh thực tế và yêu cầu khách quan của xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ điểm xuất phát rất thấp của một nước nông nghiệp lạc hậu, phong kiến và thuộc địa, phải kháng chiến cứu nước kéo dài, khoa học, kỹ thuật, công nghệ chưa phát triển, đồng thời cũng là định hướng tạo động lực cho sự phát triển đất nước, có ý nghĩa chỉ đạo lâu dài cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tại Đại hội V của Đảng (3/1982), Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu rõ: “Đảng phải tăng cường hơn nữa công tác vận động trí thức, ra sức phát huy tiềm năng to lớn của đội ngũ trí thức nước ta nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn cho đất nước, cho chủ nghĩa xã hội”.
Nhiều trí thức ở miền Nam sau giải phóng đã ở lại tham gia xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, tiêu biểu như Ngô Viết Thụ, Ngô Bá Thành, Lương Lê Đồng, Phạm Trọng Cầu...
Những năm 1979-1986, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước đổi mới tư duy lý luận, khảo nghiệm thực tiễn, đề ra những chính sách cụ thể trong kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý để đi tới đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12/1986).
Quá trình đó, Tổng Bí thư Lê Duẩn cùng các đồng chí lãnh đạo đã nhiều lần lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quản lý, khoa học, kỹ thuật. Trên thực tế, các nhà khoa học đã đóng góp xứng đáng vào việc hình thành đường lối đổi mới.