Anh Nguyễn Lam sinh ngày 31/12/1921 tại thôn Đại Cầu, xã Tiên Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam trong một gia đình Nho giáo.
Anh Nguyễn Lam.
Thuở nhỏ, anh học trường làng. Học xong tiểu học, anh thi vào trường thành chung Nam Định. Do tham gia đám tang một thầy giáo yêu nước, anh bị đuổi học. Được những người cộng sản lớp đàn anh như Phan Trọng Tuệ, Trần Tử Bình, Hà Thị Quế dìu dắt, giúp đỡ, năm 1937 anh đi thoát ly (lúc đó mới 16 tuổi) và tham gia Đoàn Thanh niên Dân chủ.
Anh có mặt trong hầu hết các cuộc tuần hành biểu dương lực lượng ở Hà Nội, mở đầu là cuộc tuần hành tiếp đón toàn quyền Gô-Đa - Đặc phái viên của Chính phủ bình dân Pháp tại ga Hàng Cỏ; đón rước Brêviê toàn quyền mới của chính phủ bình dân Pháp ở Đông Dương, tham gia cuộc diễu hành đình công của gần một ngàn thợ may quanh Hồ Hoàn Kiếm v.v…
Sau khi Chính phủ bình dân Pháp đổ, bọn thực dân phản động ở Đông Dương tìm mọi cách đàn áp phong trào dân chủ ở Việt Nam. Năm 1940 do có chỉ điểm, anh bị chính quyền thực dân bắt. Lúc đầu chúng giam ở Hỏa Lò, Hà Nội, sau chúng đầy lên Sơn La. Theo anh kể lại trong buổi họp mặt các cựu tù chính trị ở Sơn La do đồng chí Xuân Thủy – Trưởng ban Dân vận Mặt trận Trung ương chủ trì.
Anh lên Sơn La được hơn một tháng thì ngày 13/5 toàn thể gần 300 tù chính trị nhà tù Sơn La tuyệt thực đòi thả mấy đồng chí bị tên chúa ngục đàn áp, bắt giam dưới hầm tối. Để trả lời cuộc đấu tranh của anh em, theo lệnh của Công cứ Cousseau, bọn giám ngục và lính khố xanh đã lùa tất cả anh em chúng tôi xuống đường hầm sâu, tối om dài khoảng hai chục mét, ngang hai mét. Mấy trăm tù nhân ngồi, nằm chồng chất lên nhau, ỉa đái lẫn lộn, không ăn, không uống vẫn la hét phản đối liên tục ròng rã suốt nhiều ngày đêm.
Sau cuộc đấu tranh không kết quả này, kẻ thù càng lấn tới. Chúng không những tước hết các quyền lợi tối thiểu mà tù nhân đấu tranh đã giành được, mà còn những hành động tàn ác, dã man hơn. Đấy là thử thách đầu tiên của anh trong cuộc đời của một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Và qua đó anh thấm thía câu “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Được thử thách trong những cuộc chiến đấu “một mất, một còn” đó, Nguyễn Lam đã trưởng thành nhanh chóng và năm 1943 anh được đứng trong hàng ngũ những người cộng sản.
Đầu năm 1945 Nguyễn Lam ra tù và được Xứ ủy phân công về “công tác đội” ở ATK tức An toàn khu… một hình thức tổ chức mà Trung ương lập ra từ năm 1941. Đây thực chất là nơi hoạt động của cơ quan đầu não. Mỗi ATK có một ban công tác đội do một cán bộ đã được thức thách làm trưởng ban. Nhiệm vụ của công tác đội thực chất là xây dựng cơ sở, tập hợp lực lượng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa… Anh được phân công vào đội xây dựng cơ sở ở Phúc Yên và Bắc Ninh.
Cách mạng tháng Tám, anh được phân công cùng đồng đội lãnh đạo nhân dân vùng lên cướp chính quyền ở Phúc Yên và Bắc Ninh.
Giành được chính quyền đã là một thắng lợi vĩ đại. Song giữ được chính quyền lúc đó còn khó khăn hơn nhiều, Theo anh tâm sự - chính quyền non trẻ của chúng ta vừa ra đời phải đối mặt với những khó khăn ghê gớm: Cán bộ lãnh đạo vừa ít, vừa yếu… mà đa phần ở tuổi ngoài 20 dưới 30 chưa từng qua trường, lớp quản lý hành chính nào nạn đói đang đe dọa sinh mệnh hàng triệu con người. Ở miền Nam, quân Anh được Đồng Minh cử vào tước vũ khí phát xít Nhật đã “dung túng” cho thực dân Pháp quay trở lại nổ súng, mở đầu cuộc chiến tranh lâm lược Việt Nam ngày 23/9/1945.
Ở ngoài Bắc, quốc dân Đảng Trung Hoa cũng với danh nghĩa tước vũ khí của quân đội Nhật, kéo 18 vạn quân vào đem theo bọn phản cách mạng có vũ trang để thực hiện âm mưu đen tối là tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh.
Trước tình hình “ngàn cân treo sợi tóc” đó, theo anh kể lại: “Để làm thất bại âm mưu của bọn quân phiệt Trung Hoa là “tiêu diệt Đảng Cộng sản”, Đảng ta chuyển vào hoạt động bí mật dưới danh nghĩa tự tuyên bố giải tán để tránh mũi nhọn tấn công của kẻ thù, chủ động duy trì và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng tôi lúc đó hoạt động với danh nghĩa công khai là cán bộ Mặt trận Việt Minh và sau này là cán bộ Liên Việt.”
Ngày 19/12/1946 toàn quốc kháng chiến. Anh được Trung ương điều về làm Bí thư tỉnh ủy Nam Định, rồi Bí thư tỉnh ủy Ninh Bình. Tháng 9 năm 1947, Anh được điều lên làm Bí thư khu ủy khu 14 – một đơn vị hành chính mới được thành lập gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La, một phần đất của Hòa Bình, Phú Thọ.
Tháng 2/1948 Trung ương quyết định hợp nhất khu 14 vào khu 10 thành Liên khu 10, Anh được điều về công tác tại Ban Dân vận Trung ương.
Trước tình hình trên toàn quốc có quá nhiều tổ chức thanh niên cùng song song tồn tại như: thanh niên dân chủ, thanh niên tiền phong, thanh niên giải phóng v.v… cùng do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, ngày 28/9/1948 Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ chị “về việc củng cố đoàn thanh niên cứu quốc, phát triển đoàn thanh niên Việt Nam để thống nhất Mặt trận thanh niên”.
Thực hiện Chỉ thị trên, sau gần một năm chuẩn bị, tháng 6/1949 đồng chí Hoàng Quốc Việt / Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận – Mặt trận Trung ương chủ trì Hội nghị thanh vận toàn quốc của Đảng được tổ chức tại Việt Bắc. Hội nghị đã quyết định thành lập Đoàn Thanh niên cứu quốc trên phạm vi cả nước. Tại Hội nghị, thay mặt Thường vụ Trung ương Đảng, đồng chí Hoàng Quốc Việt chỉ định đồng chí Nguyễn Lam làm Trưởng tiểu ban thanh vận trung ương, đồng thời là Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên cứu quốc.
Gần nửa năm sau, ngày 7/2/1950 Đại hội đại biểu toàn quốc thống nhất các tổ chức thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức tại xã Cao Vân, huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Đây là Đại hội đầu tiên, lớn nhất của thanh niên kể từ ngày có Đảng. Tham dự Đại hội có trên 400 đại biểu từ Lạng Sơn đến Mũi Cà Mau. Đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Thường vụ Trung ương trực tiếp chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã nhất trí cao với Quyết định của Thường vụ Trung ương về thống nhất các tổ chức thanh niên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương; quyết định thành lập Đoàn Thanh niên Cứu Quốc, bầu Ban chấp hành. Đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư Trung ương Đảng Thanh niên Cứu quốc.
Từ tháng 9/1954, nhân dân ta bước vào giai đoạn mới của cách mạng với đặc điểm lớn nhất là đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, nhưng đều có một mục tiêu chung là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ mới, tháng 9/1955 Bộ Chính trị quyết định đổi tên Đoàn Thanh niên Cứu quốc thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam.
Ngày 25/10/1956 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đoàn Thanh niên cứu quốc được tổ chức tại Thủ đô Hà Nội đã quyết định chính thức đổi tên Đoàn thành Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Lam được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam.
Tháng 9 năm 1960 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí Nguyễn Lam được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng lao động Việt Nam.
Tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ III họp tháng 3/1961 tại Thủ đô Hà Nội, đồng chí Nguyễn Lam được tái đắc cử Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên lao động Việt Nam.
Năm 1962 đồng chí Nguyễn Lam được Bộ Chính trị điều về tham gia Thành ủy Hà Nội và năm 1963 được bầu làm Bí thư Thành ủy Hà Nội.
5 năm đảm nhiệm cương vị Bí thư THành ủy, đồng chí đã góp phần cùng tập thể thành ủy đẩy mạnh phong trào vừa sản xuất, vừa chiến đấu. Khẩu hiệu “tay búa, tay súng”, “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong” xuất hiện vào thời điểm này. Hà Nội trở thành niềm tin và hy vọng của cả nước.
Năm 1968, đồng chí được điều về làm Bí thư Đảng đoàn thứ trưởng Bộ công nghiệp.
Tháng 12/1969 làm Phó chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước với hàm Bộ trưởng.
Tháng 6/1973 đồng chí được cử làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Tháng 3/1974 do yêu cầu của Hà Nội đồng chí Nguyễn Lam lại được Trung ương điều về làm Bí thư Thành ủy Hà Nội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đồng chí tái đắc cử Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu vào Ban Bí thư. Và năm 1977 được phân công làm Trưởng ban công nghiệp Trung ương.
Tháng 2/1980, đồng chí Nguyễn Lam được Quốc hội bổ nhiệm làm Phó Thủ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí tái đắc cử Ban Chấp hành Trung ương, được Trung ương bầu tiếp vào Ban Bí thư và tiếp tục làm Trưởng ban Kinh tế Trung ương.
Đồng chí Nguyễn Lam được nhân dân tín nhiệm bầu làm đại biểu Quốc hội các khóa II, IV, V, VI, VII.
Về tham gia công tác Mặt trận, đồng chí là cán bộ của Mặt trận dân chủ, là cán bộ của Mặt trận Việt Minh, là Ủy viên Ban Chấp hành Mặt trận Liên Việt toàn quốc, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (khóa 1955 – 1960).
Do bệnh nặng, đồng chí Nguyễn Lam mất năm 1990, hưởng thọ 69 tuổi.
Xét công lao to lớn mà đồng chí Nguyễn Lam đã đóng góp cho Đảng, Nhà nước và nhân dân trong cách mạng dân tộc, dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước đã trao tặng đồng chí Huân chương Sao Vàng cùng nhiều huân, huy chương cao quý khác.